Đánh giá thường xuyên là một phần không thể thiếu trong quá trình dạy học phát triển năng lực, nó không chỉ cho giáo viên biết được mức độ hoàn thành nhiệm vụ của học sinh mà còn là cơ sở để học sinh có thể tự suy ngẫm về những điều mình đã học được và những điểm cần cải thiện.
1. Đưa ra các câu hỏi mở
Nếu giáo viên đặt một câu hỏi mà đáp án có sẵn trong vở ghi hoặc sách giáo khoa, điều hiểu nhiên học sinh sẽ làm là dùng tài liệu để đưa ra câu trả lời mang tính đối phó.
Để đánh giá học sinh hiệu quả hơn, giáo viên cần đặt ra các câu hỏi mở để học sinh có thể vận dụng hiểu biết và quan điểm cá nhân để đưa ra câu trả lời.
Giáo viên cũng cần tránh các câu hỏi dạng “có / không” ví dụ như “Bạn có thích đọc không?” “Các con có hiểu không”. Bởi vì học sinh sẽ chỉ trả lời “có” cho xong chứ không thực sự suy nghĩa về những gì đã học.
2. Yêu cầu học sinh suy ngẫm
Tôi đã tham dự rất nhiều tiết dự giờ với các hoạt động dạy học tích cực, học sinh tham gia rất sôi nổi, nhưng cuối buổi học học sinh vẫn không đọng lại được các kiến thức quan trọng. Lý do đơn giản là học sinh đã không có thời gian cần thiết để suy ngẫm về nội dung của bài học.
Vì vậy, khi thiết kế các hoạt động dạy học, giáo viên cần dành một khoảng thời gian để học sinh suy ngẫm, tái hiện những nội dung đã học trong bài hoặc giải thích theo quan điểm cá nhân.
Đây là một trong những chiến lược đánh giá hiệu quả nhất trong quá trình giảng dạy mà giáo viên nên áp dụng thường xuyên.
3. Sử dụng kahoot
Trò chơi này khiến học sinh vừa ôn tập củng cố lại nội dung bài học đồng thời cho giáo viên biết được số học sinh nắm được nội dung của bài và đưa ra câu trả lời đúng
4. Yêu cầu học sinh tóm tắt
Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tóm tắt lại nội dung bài học một cách ngắn gọn, sử dụng ngôn ngữ của chúng.
Hoạt động này nhằm hai mục đích, một là học sinh sẽ phải xem lại nội dung của bài và sau đó phải lựa chọn những nội dung cốt lõi và cuối cùng là diễn đạt lại theo cách hiểu của bản thân.
Học sinh có thể tóm tắt bằng cách viết một đoạn văn hoặc tóm tắt bằng sơ đồ tư duy hay các loại sơ đồ trực quan khác.
5. Nút Like/Dislike
Học sinh có thể kết hợp dùng các tín hiệu like và dislike (trên facebook) như một biện pháp để thể hiện mức độ làm chủ nội dung.
Học sinh giơ ngón tay cái hướng lên (like) để thể hiện rằng mình đã làm chủ nội dung bài học. Học sinh sẽ đưa ngón cái hướng xuống dưới (dislike) để thể hiện mình chưa hiểu nội dung. Học sinh sẽ đưa ngón tay cái ở vị trí ngang, để biểu thị vẫn còn một vài chỗ chưa hiểu.
Sau khi học sinh giơ ngón tay, giáo viên nên chọn một vài em để kiểm tra lại xem các em có thực sự hiểu nội dung của bài học.
Hoạt động này giúp thu hút sự tham gia của tất cả học sinh và giáo viên. Nó cũng giúp giáo viên có thể kiểm tra sự mức độ hiểu bài của toàn bộ học sinh trong lớp.
6. Thẻ phản hồi
Học sinh có thể sử dụng các tấm thẻ hoặc các bảng trắng nhỏ hay và các vật dụng khác để đưa ra câu hỏi, thắc mắc cũng như thể hiện phản hồi của mình đối với các câu hỏi của giáo viên. Phương pháp này giúp học sinh có thể nhanh chóng đưa ra các vấn đề của bản thân, đồng thời giáo viên cũng có thể sử dụng trong việc đánh giá nhanh học sinh.
7. Di chuyển theo bốn góc
Trong phương pháp này, giáo viên sẽ chia lớp học thành 4 góc để biểu thị cho 4 quan điểm: “hoàn toàn đồng ý”, “hoàn toàn không đồng ý”, “đồng ý một phần” và “không chắc chắn”.
Kết thúc buổi học, giáo viên sẽ chuẩn bị các câu hỏi và hỏi học sinh. Học sinh có thể chọn bất kỳ góc nào trong bốn góc để nêu ý kiến của mình.
8. Think -Pair-Share
Hoạt động này giúp học sinh có cơ hội ôn lại nội dung bài học, đồng thời giúp giáo viên nhận ra những vấn đề mà học sinh đang gặp phải.
9. Hightlight (đánh dấu)
Cuối hoạt động hoặc tiết học, học sinh và giáo viên sẽ cùng đọc lại nội dung của bài học và sử dụng bút màu/bút đánh dấu để đánh dấu các lý thuyết hoặc khái niệm cụ thể.
Trong hoạt động này, học sinh sẽ cùng giáo viên đọc lại bài học (văn bản) thành tiếng. Mục đích của hoạt động nhằm giúp học sinh (nhất là học sinh các lớp nhỏ) có thể cải thiện kỹ năng đọc và nghe, phân biệt giữa đọc nội dung và các câu nói, đoạn hội thoại, câu hỏi, v.v.
10. Câu hỏi trắc nghiệm
Các câu hỏi nên tập trung vào các khái niệm chính của bài học cũng như vào những điểm mà học sinh hay nhầm lẫn.
Sau đó, giáo viên lại đặt câu hỏi cho các nhóm đã trình bày để tìm hiểu vấn đề ở góc độ sâu hơn.
Hoạt động này giúp học sinh ôn lại nội dung bài học cũng như đặt câu hỏi cho các vấn đề mà chúng còn đang thắc mắc.
12. Kỹ thuật 3-2-1
Cuối buổi học, giáo viên phát cho học sinh một bảng về kỹ thuật 3-2-1, trong đó học sinh xem xét và phân tích những nội dung đã học:
(3) Điều mà học sinh đã hiểu gì/học được
(2) Điều mà học sinh chưa rõ
(1) Câu hỏi mà học sinh muốn đặt ra?
Thông qua hoạt động này, giáo viên cũng sẽ thu được bằng chứng về mức độ làm chủ kiến thức của học sinh.
13. Vé xuất cảnh
Học sinh ghi lại câu trả lời cho các câu hỏi đó. Những học sinh nào trả lời xong, nộp lại vé xuất cảnh mới được ra ngoài.
Giáo viên thu thập các câu trả lời ngắn gọn của học sinh trong vé xuất cảnh để đưa ra phản hồi về mức độ hiểu bài, làm chủ kiến thức kĩ năng của người học.
14. Dán giấy note
Giáo viên sẽ phát cho học sinh các tờ giấy note màu vàng (có một mặt dính).
Sau khi viết xong, giáo viên cho phép học sinh dán các tờ giấy note lên bảng.
Giáo viên và học sinh sẽ cùng suy ngẫm về những điều mà học sinh viết trên các tờ giấy note. Đó có thể là những suy nghĩ sáng tạo, những điểm mà học sinh bị vướng mắc nhiều nhất hoặc có thể là các câu hỏi thú vị mà học sinh đặt ra…
15. Đưa ra tiêu chí và tự đánh giá
Kết thúc buổi học, giáo viên sẽ đưa ra một bản checklist về những yêu cầu được đặt ra trong mục tiêu bài học.
Học sinh sẽ làm việc cá nhân và tự đánh giá những điều mình đã làm tốt.
Học sinh làm việc theo cặp đôi và kiểm chứng phần đánh giá của bạn mình.
Giáo viên sẽ gọi một học sinh bất kỳ, yêu cầu học sinh trình bày nội dung tự đánh giá và giải thích trước lớp.
Cách làm này giúp phát triển kĩ năng tự đánh giá của học sinh, đồng thời rèn luyện kĩ năng diễn đạt, giải thích, thuyết phục người khác để bảo vệ quan điểm cá nhân.
16. Đưa quan điểm
Giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét và giải thích lý do đồng ý hoặc không đồng ý cho quan điểm.
Hoạt động này học sinh có thể làm nhóm hoặc cá nhân. Trong quá trình học sinh làm việc, giáo viên sẽ di chuyển hỗ trợ và tương tác với các nhóm.
17. Tìm những điểm tương đồng
Sử dụng phương pháp so sánh là một công cụ hiệu quả để kiểm chứng mức độ hiểu bài của học sinh.
Giáo viên có thể chọn một vấn đề tương tự với nội dung đã học, yêu cầu học sinh xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng.
18. Đặt câu hỏi
Các câu hỏi sẽ được bỏ vào một chiếc hộp và sử dụng làm hoạt động khởi động cho buổi học sau.
Các câu hỏi mà học sinh đặt ra cũng được sử dụng làm minh chứng cho mức độ hiểu bài, làm chủ kiến thức, kĩ năng của người học.
19. Trò chơi hẹn hò
Giáo viên chia học sinh làm hai. Giáo viên viết các câu hỏi và câu trả lời lên các tấm thẻ riêng biệt. Đảm bảo số thẻ tương ứng với số học sinh của lớp.
Giáo viên phát cho học sinh nhóm 1 tất cả các thẻ câu hỏi. Giáo viên phát cho nhóm 2 các câu trả lời.
Học sinh sẽ phải di chuyển để tìm cặp đôi có câu hỏi và câu trả lời tương ứng nhau.
Trong quá trình di chuyển, học sinh sẽ phải ôn tập lại các nội dung kiến thức đã học trong bài học.
20. Hoạt động thực hành
Nếu như nội dung bài học chủ yếu là lý thuyết thì các sản phẩm thực hành sẽ chính là công cụ để giáo viên có thể sử dụng để đánh giá học sinh.
Hãy cho học sinh có cơ hội thực hành thường xuyên, trong quá trình thực hành, chắc chắn học sinh sẽ phải ôn tập lại những nội dung đã học và vận dụng chúng để hoàn thành các nhiệm vụ mà giáo viên giao.
Có thể nói, hoạt động đánh giá có ý nghĩa quan trọng cả với giáo viên và học sinh trong quá trình học tập. Hi vọng rằng, các ý tưởng trên có thể giúp ích cho các thầy cô trong quá trình thiết kế kế hoạch bài học và giảng dạy trên lớp.
Theo Táo giáo dục