Quà Tặng Tâm Hồn / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Tzlt.edu.vn

Trái Tim Người Mẹ (Quà Tặng Tâm Hồn)

Quà tặng tâm hồn là những món quà do ban biên tập chuyên mục Văn hóa Đại Kỷ Nguyên tiếng Việt biên soạn tặng độc giả – những món quà ấm áp mong giúp các bạn luôn vững bước trong cuộc sống và trên con đường mình đã lựa chọn.

Những giọt nước mắt long lanh như những viên kim cương rơi trên khuôn mặt kiều diễm của cô khiến anh không thể cầm lòng…

Có một người đàn ông, giống như đa số những người đàn ông khác trên trái đất này, yêu thương mẹ mình một cách dịu dàng và say đắm người vợ kiều diễm.

Nhưng, thật buồn, người vợ kiều diễm của anh lại không hề yêu quý mẹ của anh, cô có một lòng ghen tuông khủng khiếp với tình yêu mà anh dành cho mẹ.

Cô ở nhà và mỗi khi anh đi làm về, nhỏ những giọt nước mắt thánh thót trên khuôn mặt kiều diễm, cô kể về nỗi thống khổ của cô trong lúc anh đi vắng bị mẹ chồng ức hiếp. Anh cảm thấy xót xa trong tim khi thấy những giọt lệ như những giọt máu nhỏ trên khuôn mặt xinh đẹp kia. Nhưng cô nhất quyết yêu cầu anh không được hỏi han gì người mẹ, với lý do cô không muốn bị mẹ hành hạ hơn nữa vì đã kể lể với chồng…

Ngày qua ngày, cô cứ dùng nước mắt để làm tan nát trái tim anh.

Một ngày, hàng xóm thấy anh con trai lái xe chở mẹ đi và lúc trở về chỉ có một mình. Sau đó không ai trông thấy bà nữa. Không ai biết được người con trai đã đưa mẹ đi đâu.

Cứ chủ nhật, hàng xóm lại thấy anh đi khỏi nhà vào một giờ nhất định và trở về trong sự vui vẻ hạnh phúc. Anh còn nhảy chân sáo khi bước vào thềm nhà. Người vợ kiều diễm cũng nhận thấy điều ấy.

Đến một ngày, cô tới bên anh nước mắt lã chã, nói: “Anh yêu, nếu anh thực sự yêu em, em nghĩ anh không nên đi tới đó để nghe những lời nói xấu sau lưng về em của mẹ anh chứ! “

Người đàn ông bộc bạch rằng, mẹ anh thực sự không nói một lời nào xấu về cô cả. Cô im lặng.

Chủ nhật tuần sau, khi chuẩn bị rời khỏi nhà, anh lại trông thấy những giọt nước mắt long lanh như những viên kim cương của cô rơi trên khuôn mặt kiều diễm làm anh không thể cầm lòng. Cô nói với anh rằng: “Anh yêu, thực sự em không thể vắng anh dù chỉ một giây phút. Hãy ở bên em!”

Không thể cất bước nổi trước vẻ khốn khổ của người vợ xinh đẹp, anh tần ngần một hồi lâu trước thềm nhà rồi cất xe vào gara, quay gót vào nhà. Hàng xóm nhìn thấy người vợ nở nụ cười rạng rỡ.

Vào ngày chủ nhật sau đó, mọi sự cũng diễn ra như vậy. Anh lại kết thúc bằng việc lặng lẽ quay gót vào nhà, và hàng xóm vẫn trông thấy nụ cười rạng rỡ của người vợ.

Ngày chủ nhật tiếp sau, cũng lại như thế…

Đến một ngày chủ nhật xa lắm, anh rời nhà từ tờ mờ sáng khi người vợ xinh đẹp còn chưa thức giấc.

Khi anh tới nơi, không thấy mẹ đâu, chỉ còn thấy một trái tim bằng giấy màu đỏ thắm đặt trên bàn và một lá thư : ” Con trai yêu quý, mẹ không có gì để lại cho con ngoài chính trái tim này của mẹ “. Anh nhận ra đây chính là trái tim bằng giấy màu đỏ mà hồi nhỏ anh đã gấp tặng mẹ. Tới nay nó vẫn còn nguyên màu sắc tươi thắm.

Anh bước chập choạng trên con đường đầy sỏi đá, ôm chặt trái tim của người mẹ trên ngực mình, nước mắt khiến anh không nhìn thấy lối đi. Anh vấp ngã, trái tim người mẹ tuột khỏi tay anh rơi xuống mặt đất đầy sỏi đá và cát bụi..

Rồi, từ trái tim bám đầy sỏi đá và cát bụi dưới đất, bỗng vang lên một giọng nói dịu dàng của người mẹ:

“Con trai yêu quý, vấp ngã có sao không? Con không làm mình đau chứ?”

Anh sửng sốt và bật khóc to, mẹ vẫn luôn bên anh bất chấp lỗi lầm to lớn anh đã phạm phải.

Nhiều năm tháng qua đi, trái tim màu đỏ vẫn đỏ thắm và phát sáng rực rỡ trong ngôi nhà của anh.

Nhưng khuôn mặt anh và người vợ không bao giờ còn được rạng rỡ như thế. Người vợ kiều diễm đã không thể sinh được một mụn con và một tai nạn đã khiến cô vĩnh viễn mất khả năng làm mẹ. Cô sống trong nỗi đau đớn nhiều năm.

Tới một ngày, khi tuổi đã xế chiều, vào một buổi sáng tinh mơ người đàn ông quay bước trở về nhà, anh thấy người vợ đã ra đi và để lại một lá thư bên cạnh một trái tim khô đen bằng cỏ.

” Em đã không cách nào bù đắp được tội lỗi đã phạm. Trái tim của mẹ nhiều năm vẫn đỏ thắm trong ngôi nhà của chúng ta. Còn em chỉ có trái tim khô đen suốt một đời vì ghen tuông và thù hận. Ngàn lần xin lỗi anh vì tất cả…”

Hà Phương Linh (daikynguyen)

Trái Tim Người Mẹ (Quà Tặng Tâm Hồn)

Quà tặng tâm hồn là những món quà do ban biên tập chuyên mục Văn hóa Đại Kỷ Nguyên tiếng Việt biên soạn tặng độc giả – những món quà ấm áp mong giúp các bạn luôn vững bước trong cuộc sống và trên con đường mình đã lựa chọn.

Những giọt nước mắt long lanh như những viên kim cương rơi trên khuôn mặt kiều diễm của cô khiến anh không thể cầm lòng…

Có một người đàn ông, giống như đa số những người đàn ông khác trên trái đất này, yêu thương mẹ mình một cách dịu dàng và say đắm người vợ kiều diễm.

Nhưng, thật buồn, người vợ kiều diễm của anh lại không hề yêu quý mẹ của anh, cô có một lòng ghen tuông khủng khiếp với tình yêu mà anh dành cho mẹ.

Cô ở nhà và mỗi khi anh đi làm về, nhỏ những giọt nước mắt thánh thót trên khuôn mặt kiều diễm, cô kể về nỗi thống khổ của cô trong lúc anh đi vắng bị mẹ chồng ức hiếp. Anh cảm thấy xót xa trong tim khi thấy những giọt lệ như những giọt máu nhỏ trên khuôn mặt xinh đẹp kia. Nhưng cô nhất quyết yêu cầu anh không được hỏi han gì người mẹ, với lý do cô không muốn bị mẹ hành hạ hơn nữa vì đã kể lể với chồng…

Ngày qua ngày, cô cứ dùng nước mắt để làm tan nát trái tim anh.

Một ngày, hàng xóm thấy anh con trai lái xe chở mẹ đi và lúc trở về chỉ có một mình. Sau đó không ai trông thấy bà nữa. Không ai biết được người con trai đã đưa mẹ đi đâu.

Cứ chủ nhật, hàng xóm lại thấy anh đi khỏi nhà vào một giờ nhất định và trở về trong sự vui vẻ hạnh phúc. Anh còn nhảy chân sáo khi bước vào thềm nhà. Người vợ kiều diễm cũng nhận thấy điều ấy.

Đến một ngày, cô tới bên anh nước mắt lã chã, nói: “Anh yêu, nếu anh thực sự yêu em, em nghĩ anh không nên đi tới đó để nghe những lời nói xấu sau lưng về em của mẹ anh chứ! “

Người đàn ông bộc bạch rằng, mẹ anh thực sự không nói một lời nào xấu về cô cả. Cô im lặng.

Chủ nhật tuần sau, khi chuẩn bị rời khỏi nhà, anh lại trông thấy những giọt nước mắt long lanh như những viên kim cương của cô rơi trên khuôn mặt kiều diễm làm anh không thể cầm lòng. Cô nói với anh rằng: “Anh yêu, thực sự em không thể vắng anh dù chỉ một giây phút. Hãy ở bên em!”

Không thể cất bước nổi trước vẻ khốn khổ của người vợ xinh đẹp, anh tần ngần một hồi lâu trước thềm nhà rồi cất xe vào gara, quay gót vào nhà. Hàng xóm nhìn thấy người vợ nở nụ cười rạng rỡ.

Vào ngày chủ nhật sau đó, mọi sự cũng diễn ra như vậy. Anh lại kết thúc bằng việc lặng lẽ quay gót vào nhà, và hàng xóm vẫn trông thấy nụ cười rạng rỡ của người vợ.

Ngày chủ nhật tiếp sau, cũng lại như thế…

Đến một ngày chủ nhật xa lắm, anh rời nhà từ tờ mờ sáng khi người vợ xinh đẹp còn chưa thức giấc.

Khi anh tới nơi, không thấy mẹ đâu, chỉ còn thấy một trái tim bằng giấy màu đỏ thắm đặt trên bàn và một lá thư : ” Con trai yêu quý, mẹ không có gì để lại cho con ngoài chính trái tim này của mẹ “. Anh nhận ra đây chính là trái tim bằng giấy màu đỏ mà hồi nhỏ anh đã gấp tặng mẹ. Tới nay nó vẫn còn nguyên màu sắc tươi thắm.

Anh bước chập choạng trên con đường đầy sỏi đá, ôm chặt trái tim của người mẹ trên ngực mình, nước mắt khiến anh không nhìn thấy lối đi. Anh vấp ngã, trái tim người mẹ tuột khỏi tay anh rơi xuống mặt đất đầy sỏi đá và cát bụi..

Rồi, từ trái tim bám đầy sỏi đá và cát bụi dưới đất, bỗng vang lên một giọng nói dịu dàng của người mẹ:

“Con trai yêu quý, vấp ngã có sao không? Con không làm mình đau chứ?”

Anh sửng sốt và bật khóc to, mẹ vẫn luôn bên anh bất chấp lỗi lầm to lớn anh đã phạm phải.

Nhiều năm tháng qua đi, trái tim màu đỏ vẫn đỏ thắm và phát sáng rực rỡ trong ngôi nhà của anh.

Nhưng khuôn mặt anh và người vợ không bao giờ còn được rạng rỡ như thế. Người vợ kiều diễm đã không thể sinh được một mụn con và một tai nạn đã khiến cô vĩnh viễn mất khả năng làm mẹ. Cô sống trong nỗi đau đớn nhiều năm.

Tới một ngày, khi tuổi đã xế chiều, vào một buổi sáng tinh mơ người đàn ông quay bước trở về nhà, anh thấy người vợ đã ra đi và để lại một lá thư bên cạnh một trái tim khô đen bằng cỏ.

” Em đã không cách nào bù đắp được tội lỗi đã phạm. Trái tim của mẹ nhiều năm vẫn đỏ thắm trong ngôi nhà của chúng ta. Còn em chỉ có trái tim khô đen suốt một đời vì ghen tuông và thù hận. Ngàn lần xin lỗi anh vì tất cả…”

Hà Phương Linh (daikynguyen)

Tuyển Tập Hạt Giống Tâm Hồn

Quà Tặng Từ Trái Tim

Người ta rất cần những món quà đến từ trái tim, đặc biệt là vào ngày lễ. Trong thế giới đầy hối hả này, việc trả tiền bằng thẻ tín dụng dễ dàng hơn nhiều so với việc tặng một món quà xuất phát từ trái tim.

Cách đây vài năm, tôi bắt đầu chuẩn bị tư tưởng cho bốn đứa con của tôi rằng, Giáng Sinh sẽ được tổ chức thật đơn giản. Nếu con bạn cũng giống con tôi, chắc bạn biết câu trả lời của chúng sẽ là: “Chắc chắn rồi, mẹ. Con đã nghe mẹ nói điều đó nhiều lần rồi!”

Tôi đã đánh mất uy tín với chúng, vì khi tôi vừa ly dị xong, tôi thường nói với chúng câu nói đó trước ngày Giáng Sinh, nhưng rồi tôi lại đi mua sắm đủ thứ. Năm nay mọi chuyện phải khác đi, nhưng chúng sẽ không tin đâu.

Trước Giáng Sinh một tuần, tôi tự hỏi thầm: “Mình có những gì để Giáng Sinh năm nay thật đặc biệt?” Trong các ngôi nhà mà chúng tôi từng sống trước khi ly dị, tôi thường nhìn thời gian ra để trang trí nội thất. Tôi biết cách sử dụng giấy dán tường, lát gạch ceramic, may màn cửa phù hợp với tấm ra giường. Nhưng trong ngôi nhà này, thời gian rất ít và tiền bạc còn ít hơn nữa. Ngoài ra, tôi không ưa ngôi nhà thuê xấu xí này – thảm màu đỏ cam, và tường màu xanh lè. Tôi không muốn chi tiền ra cho ngôi nhà này, vì tôi nghe một giọng nói vang lên trong đầu: “Chúng ta sẽ không ở đây lâu đâu”.

Trong nhà, không ai bận tâm đến điều đó trừ đứa con gái Lisa. Mặc dù nó mới tám tuổi, tôi nhận thấy nó hướng về gia đình nhiều hơn ba đứa kia. Việc chuyển nhà luôn gây ra khổ tâm cho nó. Nó cảm thấy đánh mất sự an toàn của ngôi nhà cũ, và trên tất cả, nó phải bỏ lại phía sau một căn phòng ngủ trang trí thật đẹp – giấy dán tường toàn là hoa cúc – là tổ ấm đặc biệt của nó.

Đã đến lúc tôi vận dụng tài năng của mình. Tôi gọi điện đến người chồng cũ để bàn bạc về các món quà cho bọn nhỏ. Với Lisa, tôi yêu cầu anh ấy mua một tấm ra giường đặc biệt, còn tôi sẽ mua giấy dán tường phù hợp với nó.

Vào đêm trước Giáng Sinh, tôi chi ra mười lăm đôla cho một thùng son và mua thêm những tấm giấy trang trí thật đẹp. Mục đích đơn giản thôi:

Tôi sẽ sơn phết và may vá và bận bịu đủ thứ cho đến sáng ngày Giáng Sinh, để tôi không có thời gian thương xót cho bản thân vào một ngày lễ gia đình đặc biệt như vậy.

Đêm đó, tôi phát cho mỗi đứa con ba tờ giấy cùng với phong bì. Trên đầu mỗi trang giấy là dòng chữ: “Điều tôi thích về chị Mia” hoặc “Điều tôi thích về anh Kris” hoặc “Điều tôi thích về em gái Lisa” hoặc “Điều tôi thích về em trai Erik”.

Bọn chúng đang ở vào lứa tuổi mười lăm, mười ba, tám và sáu. Và tôi tin rằng chúng có thể tìm thấy ít nhất là một điểm nào đó mà chúng thích về nhau. Trong lúc chúng tìm một chỗ riêng để viết cho kín đáo, tôi đi vào phòng ngủ để gói những món quà mua ở cửa hiệu.

Gói quà xong, tôi trở ra bếp, thấy chúng đã viết xong và dán kín phong bì. Chúng tôi ôm nhau, hôn nhau và chúc nhau ngủ ngon. Bọn chúng vội vã đi ngủ, riêng Lisa được phép ngủ trên giường tôi với lời hứa là không được nhìn lén vào phòng ngủ của nó cho đến buổi sáng ngày Giáng Sinh.

Tôi bắt đầu hành động. Tôi hoàn thành màn cửa, sau đó son bốn bức tường. Gần sáng thì tất cả đã xong. Tôi đứng lùi ra xa ngắm tác phẩm lao động của mình. Khoan đã – sao tôi không thêm chiếc cầu vồng và nhiều đám mây trên tường cho chúng phù hợp với tấm ra giường? Năm giờ sáng, mọi việc hầu như hoàn hảo. Quá kiệt sức, đầu óc tôi hầu như không còn nghĩ gì đến gia cảnh nghèo túng của mình nữa.

Trở về phòng ngủ của mình, tôi đứng ngắm Lisa đang nằm giang chân duỗi tay chiếm hết khoảng trống trên giường. Tôi nhẹ nhàng ẵm nó lên và mang nó về phòng ngủ của nó. Khi đặt đầu Lisa xuống chiếc gối, nó hỏi:

– Mẹ, trời sáng chưa?

– Chưa đâu cung. Con cứ tiếp tục nhắm mắt tới khi ông già Noel đến.

Tôi tỉnh dậy khi nghe lời cám ơn của Lisa:

– Chao ôi, mẹ ơi! Nó đẹp quá!

Tất cả chúng tôi rồi khỏi giường, cùng ngồi quanh gốc cây thông và mở quà. Sau đó, mỗi đứa được nhận ba phong bì. Chúng tôi đọc những dòng chữ viết trên tờ giấy, với những đôi mắt nhòa lệ và những cái mũi đỏ ửng. Cuối cùng chúng tôi đọc những lời dành cho bé Erik – út ít trong nhà – và nghĩ rằng nó sẽ không nhận được những lời lẽ hay ho đâu.

Kris viết thế này: “Điều con thích về Erik là nó không biết sợ gì cả”.

Mia viết: “Điều con thích về Erik là nó có thể nói chuyện với tất cả mọi người”.

Lisa lại viết: “Điều con thích về Erik là nó có thể leo cây cao hơn bất cứ ai”.

Quà tặng từ trái tim đã làm nên những kỷ niệm đáng nhớ. Sau này, khi vấn đề tài chính của tôi đã vững vàng, chúng tôi có những mùa Giáng Sinh to lớn hơn, dưới cây thông có nhiều quà hơn… nhưng khi hồi tưảng về mùa Giáng Sinh yêu thích nhất, tất cả chúng tôi đều nói về ngày Giáng Sinh đó.

Tôi đặc biệt nhớ lại cảm giác bị kéo nhẹ nơi ống tay áo, rồi một bàn tay nhỏ khum khum bên tai tôi và tiếng Erik thì thầm:

– Ôi, mẹ ơi, con không hề biết là các anh chị lại thích con!

Quà Tặng Tâm Hồn Kì 2: Chiếc Lá Cuối Cùng

Quà tặng tâm hồn là những món quà do ban biên tập chuyên mục Văn hóa Đại Kỷ Nguyên tiếng Việt biên soạn tặng độc giả – những món quà ấm áp mong giúp các bạn luôn vững bước trong cuộc sống và tìm thấy con đường thực sự của mình.

Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là “biệt khu”. Nhũng “biệt khu” này tạo thành những góc và đường lượn kì lạ. Mỗi con phố tự cắt một hoặc hai lần. Một dạo, có nghệ sĩ đã khám phá ra khả năng hữu ích của con phố này. Thử hình dung, một người khi thu hoá đơn tiền sơn, tiền giấy và tiền vải vẽ đi qua phố ấy, bỗng nhiên nhận thấy mình quay lại mà chưa thu được lấy một xu nào.

Vậy nên chẳng mấy chốc cánh nghệ sĩ đổ xô dến ngôi làng Greenwich cổ kính kì quặc đó, săn tìm những cửa sổ phía Bắc, những đầu hồi thế kỉ thứ mười tám và những căn phòng áp mái kiểu Hà Lan với giá thuê rẻ. Rồi họ nhập khẩu vài cái xô chậu đúc bằng hợp kim chì và thiếc, một hoặc hai cái bếp lẩu từ đại lộ Thứ Sáu rồi hình thành nên “khu hoạ sĩ”.

Áp mái toà nhà gạch ba tầng thấp tịt, Sue và Johnsy có một xưởng vẽ. Johnsy là tên gọi thân mật của Joanna. Một người từ Maine đến, còn người kia đến từ California. Họ gặp nhau tại Table d’hôte trong tiệm Delmonico trên phố Thứ Tám và nhận thấy có cùng sở thích về nghệ thuật, về món salad rau diếp, về kiểu ống tay áo ngoài rộng và hợp nhau đến nỗi kết quả là một xưởng vẽ chung ra đời.

Dạo ấy là vào tháng Năm. Tháng Mười một, gã khách lạ chưa hề được thấy mặt, lạnh lẽo, mà bác sĩ gọi là gã Viêm Phổi, rình rập đến khu hoạ sĩ, thỉnh thoảng vươn những ngón tay lạnh buốt của mình chạm vào ai đó. Khắp mạn Ðông, kẻ hủy diệt ấy hùng dũng bước đi, quật ngã hàng chục nạn nhân; nhưng khi qua những “biệt khu” đầy rêu và những con phố hẹp loằng ngoằng, bàn chân gã bước đi dè dặt.

Ngài Viêm Phổi không thuộc hàng chính nhân quân tử. Một phụ nữ mảnh mai, máu kiệt dần bởi những cơn gió Tây miền California khó có thể là đối thủ chính đáng của gã đần có nắm đấm đỏ, thở dốc, già nua kia. Nhưng gã vẫn quật ngã Johnsy; cô nằm, hầu như không động đậy trên chiếc giường sắt sơn của mình, nhìn qua những ô kính cửa sổ nhỏ kiểu Hà Lan lên bức tường trống trơn của ngôi nhà gạch đối diện.

Sáng nọ, ông bác sĩ có đôi mày rậm, đốm bạc gọi Sue ra hành lang.

– Ta có thể nói cơ hội sống của cô ấy chỉ còn lại một phần mười, – ông nói khi lắc nhiệt kế để thuỷ ngân hạ xuống. – Nhưng cái phần đó còn phụ thuộc vào việc cô ấy có muốn sống nữa hay không. Cái kiểu con người cứ sắp hàng bên cạnh ông chủ nhà hòm như thế thì thuốc men cũng chẳng có nghĩa lí gì. Cô bạn bé nhỏ của cô đã nghĩ rằng mình sẽ không bình phục nữa. Cô ấy có điều gì vướng mắc trong đầu không?

– Bạn ấy – bạn ấy mong ước có ngày vẽ được vịnh Naples, – Sue đáp.

– Vẽ ư? Hừ! Cô ấy không có điều gì đáng để bận tâm gấp bội lần hơn ư? – một chàng trai, chẳng hạn?

– Một chàng trai à? – Sue nói, cao giọng như thể tiếng đàn chợt buông dây. – Một người đàn ông thì tốt ư? Nhưng, không, thưa bác sĩ, không có chuyện đó đâu.

– À, vậy ra chỉ tại yếu thôi, – bác sĩ nói. – Tôi sẽ cố hết sức chữa chạy bằng tất cả vốn liếng y học của mình. Nhưng một khi bệnh nhận bắt đầu tính có bao nhiêu xe dự tang lễ của mình thì tôi phải trừ đi năm mươi phần trăm công hiệu cứu chữa của thuốc men. Nếu cô có thể làm cho cô ấy hỏi về những mốt mới mùa đông, tay áo chẳng hạn, thì tôi chắc trong mười phần cô ấy đã khá lên hai thay vì một như bây giờ.

Sau khi bác sĩ ra về, Sue vào phòng làm việc, khóc ướt đẫm cả chiếc khăn Nhật. Rồi cô bình tĩnh mang bảng vẽ vào phòng Johnsy, miệng huýt sáo một điệu nhạc jazz.

Khi Sue đang vẽ phác chiếc quần dài cưỡi ngựa trang nhã và chiếc kính một mắt cho nhân vật chính của truyện, anh chàng cao bồi Idaho, thì cô nghe có tiếng thì thầm lặp đi lặp lại nhiều lần. Cô bước vội đến bên giường.

Mắt Johnsy mở to. Cô đang nhìn ra cửa sổ và đếm – đếm lùi lại.

– Mười hai, – cô đếm, ngừng một lát, – “mười một”, rồi “mười”, “chín”; rồi gần như cùng một lúc “tám” và “bảy”.

Sue lo lắng nhìn ra ngoài của sổ. Ðếm cài gì ở ngoài đó? Trong tầm mắt chỉ có một cái sân trơ trụi, ảm đạm và bức tường trống trơn của ngôi nhà gạch cách chừng sáu mét. Một dây trường xuân già, rất già, gốc cong queo và mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Hơi thở lạnh lẽo của mùa thu đã bứt lá của nó ra khỏi thân cho đến lúc chỉ còn trơ đám cành cây gần trụi hết lá bám vào những viên gạch nẻ sứt.

– Cái gì vậy hả bạn? – Sue hỏi.

– Sáu, – Johnsy nói như thể là tiếng thì thào. – Giờ thì chúng rụng nhanh hơn. Ba hôm trước phải gần cả trăm. Nó làm đầu mình phát đau lên khi đếm. Nhưng bây giờ thì dễ rồi. Một chiếc nữa đã đi. Giờ chỉ còn năm.

– Năm cái gì hả bạn? Nói cho Sudie của bạn biết đi.

– Những chiếc lá. Trên cây trường xuân. Khi chiếc cuối cùng rơi, chắc mình cũng ra đi. Mình biết điều đó đã ba ngày nay. Bác sĩ không nói gì với bạn sao?

– Bạn không cần phải mua rượu vang nữa đâu, – Johnsy nói, mắt vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ. – Một chiếc nữa rơi rồi. Không, mình không muốn ăn cháo tí nào. Chỉ còn bốn chiếc lá. Mình muốn xem chiếc cuối cùng rụng trước khi trời tối. Rồi mình cũng sẽ đi theo.

– Bạn Johnsy yêu quý ơi, – Sue cúi người xuống nói, – bạn có hứa với mình là sẽ nhắm mắt và không nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi mình làm xong việc không? Mình phải nộp mấy bức này vào ngày mai. Mình cần ánh sáng, nếu không thì mình đã buông rèm xuống.

– Bạn không thể vẽ ở phòng khác sao? – Johnsy hờ hững hỏi.

– Mình thích ở đây, bên bạn, – Sue đáp. – Hơn nữa mình không muốn bạn cứ dán mắt vào những chiếc lá trường xuân ngớ ngẩn ấy.

– Hãy cố ngủ đi, – Sue nói. – Mình phải mời ông lão Behrman lên làm mẫu bức người hợ mỏ già khắc khổ. Mình sẽ đi một chốc thôi. Ðừng cố di chuyển cho đến khi mình quay lại.

Sue tìm thấy lão Behrman nồng nặc mùi rượu dâu nặng trong cái hang mờ tối của lão bên dưới. Trong góc phòng, một tấm vải trống, căng sẵn trên giá, vẫn đợi suốt hai mươi lăm năm nay chờ nét vẽ đầu tiên của bức kiệt tác. Cô kể cho lão nghe ý nghĩ lạ lùng của Johnsy và cái cách bạn ấy thực sự đuối đi, sắp lìa tung như một chiếc lá bay xa khi sự níu giữ mỏng manh của bạn ấy với thế giới này ngày một yếu hơn.

Lão Behrman, đôi mắt đỏ ngấn lệ, oang oang biểu lộ sự khinh thường và công kích của mình trước chuyện tưởng tượng ngu ngốc như thế.

– Chà! Trên thế gian này còn có người ngốc đến độ muốn chết vì những chiếc lá lìa xa cái dây leo dớ dẩn kia ư? Ta chưa bao giờ nghe chuyện nào như thế cả. Không, ta sẽ không ngồi làm mẫu lão già đần độn khắc khổ ù lì của cô đâu. Sao cô lại để cái chuyện ngu ngốc ấy chui vào óc của cô ta? Ôi, tội nghiệp thay cho Johnsy bé bỏng.

– Bạn ấy ốm yếu lắm, – Sue nói, – và sốt đã làm đầu óc bạn ấy đâm bệnh hoạn, đầy rẫy những ý tưởng hoang đường. Thôi được, bác Behrman à, nếu bác không ngồi mẫu cho cháu thì cũng chẳng sao. Nhưng cháu nghĩ bác là một lão già cục cằn, ba hoa, lọm khọm.

– Cô đúng là đồ đàn bà! – lão Behrman hét lên. – Ai bảo ta không ngồi mẫu? Ði nào. Ta đi cùng cô. Ta đã nói suốt nửa tiếng đồng hồ rằng ta sẽ làm mẫu rồi cơ mà. Lạy Chúa! Ðây không phải là nơi để một người tử tế như cô Johnsy nằm dưỡng bệnh. Hôm nào đó ta sẽ vẽ kiệt tác đó và tất cả chúng ta sẽ giã từ chốn này. Lạy Chúa! Ðúng đấy.

Johnsy đang ngủ khi hai người lên gác. Sue kéo rèm xuống che kín cửa sổ rồi ra hiệu cho lão Behrman sang phòng bên. Ở đấy, họ lo lắng nhìn ra cửa sổ, về phía cây trường xuân. Rồi hai người im lặng nhìn nhau một lát. Một cơn mưa lạnh, dai dẳng lẫn với tuyết đang rơi. Vận chiếc sơ mi xanh cũ, Behrman ngồi trên cái ấm lật úp, giả làm hòn đá trong tư thế người thợ mỏ khắc khổ.

Sáng hôm sau, Sue thức giấc sau khi chợp mắt được một tiếng đồng hồ, cô bắt gặp đôi mắt mở to, vô cảm của Johnsy nhìn trân trân vào tấm rèm xanh nơi cửa sổ.

– Kéo hộ nó lên đi; mình muốn nhìn, – cô thì thào giục.

Sue miễn cưỡng nghe lời.

Nhưng, kìa! Sau một đêm mưa quật, gió mạnh lồng lộng không ngớt, trên bức tường gạch kia chiếc lá trường xuân vẫn đứng nương vào vách. Ðấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn xanh thẫm nơi gần cuống lá, nhung quanh rìa đã ngả màu vàng sẫm và hư hoại; chiếc lá vững chãi bám chắc vào cành cây cách mặt đất chừng sáu mét.

– Ðấy là chiếc lá cuối cùng, – Johnsy nói. – Mình tưởng chắc nó đã rơi đêm qua rồi. Mình nghe tiếng gió. Hôm nay chắc nó sẽ rơi và lúc ấy mình cũng sẽ chết.

– Bạn yêu quý, – Sue nói, mặt hốc hác cúi xuống gối, – nếu bạn không nghĩ về bản thân thì hãy nghĩ đến mình. Mình biết làm gì bây giờ?

Nhưng Johnsy không trả lời. Trên cõi đời này, cái cô độc nhất là một linh hồn đang chuẩn bị sẵn sàng để đi xa trên hành trình bí ẩn của nó. Ý nghĩ đó dường như chế ngự cô mạnh hơn khi từng tí, sợi dây ràng buộc cô với tình bạn, với thế gian này đang chùng ra.

Ngày trôi qua và ngay đến khi trong ánh hoàng hôn họ vẫn còn thấy chiếc lá trường xuân cô đơn bám chặt lấy thân cây tựa trên bờ vách. Và rồi khi bóng đêm tràn đến, gió bắc lại lồng lên trong lúc mưa vẫn nặng hạt quật vào cửa sổ, rơi xuống từ mái hiên thấp kiểu Hà Lan.

Lúc trời vừa hửng sáng, Johnsy tàn nhẫn yêu cầu kéo rèm lên.

Chiếc lá trường xuân vẫn còn đó.

Johnsy nằm nhìn nó hồi lâu. Lát sau cô gọi nhẹ Sue, đang nấu cháo gà cho cô trên cái bếp ga.

– Mình đúng là đồ tệ thật, Sudie à, – Johnsy nói. – Cái điều đã khiến chiếc lá cuối cùng kia nằm đấy đã cho mình thấy mình là kẻ nhẫn tâm như thế nào. Muốn chết là tội lỗi. Bây giờ bạn cho mình xin một tí cháo, ít sữa có pha tí rượng vang, và… khoan đã, đưa cho mình chiếc gương tay trước rồi sắp mấy cái gối quanh mình, mình sẽ ngồi dậy xem bạn nấu.

Một giờ sau cô nói:

– Sudie à, hôm nào đó mình hi vọng sẽ vẽ vịnh Naples.

Buổi chiều bác sĩ đến, khi ông về, Sue kiếm cớ để theo ra hành lang.

– Thoát rồi, – bác sĩ nắm bàn tay gầy guộc run run của Sue và nói. – Bằng tài chăm sóc khéo léo, cô đã chiến thắng. Bây giờ tôi phải đi thăm một ca khác ở dưới lầu. Behrman, tên ông ấy… tôi chắc đó là một nghệ sĩ. Cũng bị viêm phổi. Ông ấy đã già yếu mà bệnh tình thì lại nguy kịch. Không còn hi vọng, nhưng hôm nay ông ấy sẽ nhập viện để được chăm sóc kĩ càng hơn.

Hôm sau bác sĩ bảo Sue:

– Cô ấy đã qua cơn hiểm nghèo. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần bồi dưỡng và chăm sóc chu đáo, thế thôi.

Chiều hôm ấy Sue đến bên giường, nơi Johsy đang nằm bình thản đan nhì nhằng chiếc khăn choàng len xanh thẫm và choàng tay ôm lấy người Johnsy với cả đống gối.

– Mình có chuyện kể đây, chuột bạch này, – cô nói. – Hôm nay, bác Behrman mất vì viêm phổi ở bệnh viện. Bác chỉ ốm có hai ngày. Sáng hôm đầu tiên, người gác cổng đã thấy bác quằn quại đau trong phòng của bác nơi tầng trệt. Giày và quần áo bác ướt sũng, lạnh băng. Họ không thể hình dung bác đã ở đâu vào cái đêm khủng khiếp như thế. Rồi khi họ tìm thấy chiếc đèn lồng, hãy còn sáng và cái thang đã bị kéo khỏi chỗ của nó, mấy chiếc bút lông vương vãi và một bảng pha màu với xanh vàng hoà lẫn, và… nhìn ra cửa sổ kia, bạn, chỗ chiếc lá trường xuân cuối cùng ấy.

Bạn không ngạc nhiên là tại sao nó chẳng hề rung rinh hay di chuyển khi gió thổi? Ồ, bạn thân thương ơi, đấy là kiệt tác của bác Behrman… bác vẽ nó ở đó vào cái đêm chiếc lá cuối cùng rơi.