Quà Tặng Cuộc Sống Là Phương Thức Biểu Đạt Gì / Top 14 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Tzlt.edu.vn

Phương Thức Biểu Đạt Là Gì? Các Phương Thức Biểu Đạt Trong Văn Bản

Khái niệm phương thức biểu đạt là gì?

Phương thức biểu đạt là gì là thắc mắc của rất nhiều người, đặc biệt khi đang quan tâm đến các loại biểu đạt. Theo định nghĩa, phương thức biểu đạt chính là cách người với người trao đổi những tâm tư, ý nghĩ và cảm xúc của mình với đối tượng trực tiếp.

Phương thức biểu đạt giúp người với người hiểu nhau hơn, gần gũi hơn và giúp gắn kết các mối quan hệ. Bởi không ai không muốn những suy nghĩ và cảm xúc của mình được hưởng một cách đầy đủ và đúng đắn.

Mặc dù vậy, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể bày tỏ được hết những gì bản thân mong muốn. Do đó, người biểu đạt cần biết nắm vững các phương thức biểu đạt cũng như ý nghĩa của chúng để thể hiện suy nghĩ của mình một cách tốt nhất.

Tự sự hay còn gọi là tường thuật, kể chuyện. Tự sự là cách kể lại, thuật lại sự việc, cũng là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia và cuối cùng kết thúc thể hiện một ý nghĩa. Đặc trưng của phương thức tự sự như sau:

Phương thức miêu tả là việc làm cho người đọc, người nghe, người xem có thể thấy sự vật, hiện tượng hay con người (đặc biệt là với thế giới nội tâm) như đang hiện ra trước mắt qua đối tượng được thể hiện ngôn ngữ miêu tả.

Là phương thức biểu đạt giúp thể hiện hay bộc lộ được tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh.

Đây là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải, trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết.

Phương thức này sẽ được sử dụng khi cần cung cấp, giới thiệu hay muốn giảng giải những tri thức về một sự vật hoặc hiện tượng nào đó cho người đọc và người nghe.

Phương pháp liệt kê.

Phương pháp giải thích hay nêu định nghĩa.

Phương pháp dùng con số hay nêu ví dụ.

Phương pháp phân loại, phân tích

Phương pháp so sánh hay đối chiếu.

Phương thức biểu đạt theo hình thức hành chính – công vụ thuộc dạng văn bản thuộc phong cách hành chính công vụ là văn bản điều hành xã hội, có chức năng xã hội. Xã hội được điều hành bằng luật pháp, văn bản hành chính.

Đặc trưng của phương thức hành chính – công vụ chính là việc quy định rõ ràng, ràng buộc mối quan hệ giữa các tổ chức nhà nước với nhau. Bên cạnh đó còn là giữa các cá nhân với nhau trong khuôn khổ hiến pháp và các bộ luật văn bản pháp lý dưới luật từ trung ương tới địa phương.

Từ việc tìm hiểu phương thức biểu đạt là gì, bạn sẽ thấy có 6 phương pháp thường được sử dụng. Tuy nhiên, trong thực tế mỗi văn bản đều sử dụng kết hợp nhiều cách biểu đạt khác nhau.

Việc sử dụng đơn lẻ hay phối hợp các phương pháp biểu đạt là tùy thuộc ngữ cảnh, cách dùng, khả năng cũng như ngôn ngữ của người nói hay người sử dụng ngôn từ. Một điểm đặc biệt là trong một văn bản, các phương thức biểu đạt sẽ không có vai trò ngang nhau, mà sẽ có phương thức chủ đạo và phương pháp xen thêm.

Phương Thức Biểu Đạt Là Gì Và Các Phương Thức Biểu Đạt Hiện Nay Trong Công Việc

Phương thức biểu đạt là gì?

Hiểu 1 cách đơn giản, phương thức biểu đạt là cách thức, phong cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu,… để biểu đạt thái độ, tình cảm và ý nghĩa nhất định nào đó. Thông qua phương thức này, chúng ta còn truyền tải được thông điệp đối với người đọc, người nghe 1 cách rõ ràng.

Trong 1 bài nói hoặc bài viết, hay thậm chí là các tác phẩm nghệ thuật văn chương, người ta có xu hướng kết hợp các phương thức biểu đạt khác nhau. Điều này cho phép tác giả thể hiện ý đồ của mình 1 cách rõ ràng, đa dạng hơn.

Tự sự

Tự sự là phương thức dùng ngôn ngữ để kể một chuỗi sự việc có trình tự và dẫn tới kết thúc. Bên cạnh truyền tải nội dung câu chuyện, tự sự còn khắc hoạ tính cách nhân vật. Thông qua đó, chúng ta còn cảm nhận được những bài học, thông điệp sâu sắc, mới mẻ về con người, cuộc sống.

Miêu tả

Miêu tả là phương thức dùng ngôn ngữ nhằm khiến cho người nghe, người đọc có thể hình dung cụ thể sự vật, sự việc được nhắc đến. Thông qua cách nói, cách viết miêu tả, người nghe, người đọc hình dung sự vật, sự việc như đang hiện ra trước mắt.

Miêu tả không chỉ hướng tới những thứ bên ngoài, mà còn lột tả được thế giới nội tâm bên trong.

Biểu cảm

Biểu cảm là phương thức lồng ghép, thể hiện cảm xúc của người nói, người nghe về thế giới xung quanh. Mục đích của phương thức này là khiến người ta rung động, đồng cảm với cảm xúc của người viết, người nói.

Thuyết minh

Thuyết minh là phương thức cung cấp, giới thiệu, giảng giải về 1 sự vật, hiện tượng nào đó. Khác với những phương thức khác, văn bản thuyết minh chỉ đơn thuần cung cấp tri thức chính xác.

Nghị luận

Nghị luận là phương thức được dùng để bàn luận về 1 vấn đề nào đó. Nghị luận cho chúng ta biết được quan điểm về vấn đề đúng – sai như thế nào. Bên cạnh đó, phương thức này còn bộc lộ ý kiến và thuyết phục người khác đồng ý với quan điểm đó.

Hành chính – công

Hành chính – công là phương thức mang tính trịnh trọng, chính xác. Những văn bản hành chính – công đơn thuần để thông báo, cam kết, yêu cầu tuân thủ các quy định.

Phương thức này được sử dụng để giao tiếp giữa các cơ quan, Nhà nước và nhân dân, các quốc gia,…

Liêm sỉ là gì? Ý nghĩa của việc liêm sỉ trong… Clone là gì? Clone có ý nghĩa như thế nào trong… Quyết đoán là gì? Đặc điểm và ý nghĩa

Phân Biệt Các Phương Thức Biểu Đạt Trong Văn Bản

Là dùng ngôn ngữ để kể một chuỗi sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng tạo thành một kết thúc. Ngoài ra, người ta không chỉ chú trọng đến kể việc mà còn quan tâm đến việc khắc hoạ tính cách nhân vật và nêu lên những nhận thức sâu sắc, mới mẻ về bản chất của con người và cuộc sống. Cách nhận biết phương thức tự sự: có cốt truyện, có nhân vật, có diễn biến sự việc, có những câu văn trần thuật. Tự sự thường được sử dụng trong truyện, tiểu thuyết, văn xuôi nói chung, đôi khi còn được dùng trong thơ( khi muốn kể sự việc ) Ví dụ: ” Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi đứa một cái giỏ, sai đi bắt tôm, bắt tép và hứa, đứa nào bắt được đầy giỏ sẽ thưởng cho một cái yếm đỏ. Tấm vốn chăm chỉ, lại sợ dì mắng nên mải miết suốt buổi bắt đầy một giỏ cả tôm lẫn tép. Còn Cám quen được nuông chiều, chỉ ham chơi nên mãi đến chiều chẳng bắt được gì.” Trong đoạn văn trên, tác giả dân gian kể về sự việc hai chị em Tấm đi bắt tép. +Có nhân vật : dì ghẻ, Tấm, Cám. +Có câu chuyện đi bắt tép của hai chị em +Có diễn biến hành động của các nhân vật dì ghẻ, Tấm & Cám +Có các câu trần thuật

Là dùng ngôn ngữ làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc như đang hiện ra trước mắt hoặc nhận biết được thế giới nội tâm của con người. Dấu hiệu nhận biết phương thức miêu tả : Có các câu văn, câu thơ tái hiện lại hình dáng, diện mạo, màu sắc,… của người và sự vật ( tả người, tả cảnh, tả tình,….) Ví dụ: ” Trăng đang lên. Mặt sông lấp loáng ánh vàng. Núi Trùm Cát đứng sừng sững bên bờ sông thành một khối tím sẫm uy nghi, trầm mặc. Dưới ánh trăng, dòng sông sáng rực lên, những con sóng nhỏ lăn tăn gợn đều mơn man vỗ nhẹ vào hai bên bờ cát“ ( Trong cơn gió lốc, Khuất Quang Thụy) Đoạn văn trên tả cảnh dòng sông trong một đêm trăng sáng.

Là cung cấp, giới thiệu, giảng giải,,…những tri thức về một sự vật, hiện tượng nào đó cho những người cần biết nhưng còn chưa biết. Nhận biết phương thức thuyết minh hơi rắc rối hơn chút : có những câu văn chỉ ra đặc điểm riêng, nổi bật của đối tượng,người ta cung cấp kiến thức về đối tượng, nhằm mục đích làm người đọc hiểu rõ về đối tượng nào đó. Ví dụ:Trong muôn vàn loài hoa mà thiên nhiên đã tạo ra trên thế gian này, hiếm có loài hoa nào mà sự đánh giá về nó lại được thống nhất như là hoa lan. Hoa lan đã được người phương Đông tôn là ” loài hoa vương giả ” (vương giả chi hoa). Còn với người phương Tây thì lan là ” nữ hoàng của các loài hoa “ Họ lan thường được chia thành hai nhóm : nhóm phong lan bao gồm tất cả những loài sống bám trên đá, trên cây, có rễ nằm trong không khí.Còn nhóm địa lan lại gồm những loài có rễ nằm trong đất hay lớp thảm mục …. ( Trích trong SGK Ngữ văn lớp 10 ) Đoạn trích thuyết minh về hoa lan, nhằm mục đích làm cho người đọc hiểu rõ về loài hoa này.

6. Hành chính công vụ :

Bản quyền bài viết này thuộc về https://vanhay.edu.vn. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn

Các Phương Thức Biểu Đạt Và Dấu Hiệu Nhận Biết Chuẩn Xác

Phương thức biểu đạt là gì là thắc mắc của rất nhiều người, đặc biệt là khi đang quan tâm đến các loại biểu đạt. Theo định nghĩa phương thức biểu đạt là cách người với người trao đổi những tâm tư, ý nghĩa, cảm xúc của mình với đối tượng trực tiếp tiếp xúc. Phương thức biểu đạt giúp cho mọi người gần gũi nhau hơn, cuộc trò chuyện sẽ trở nên hữu ích hơn. Xác định phương thức biểu đạt trong một văn bản là một trong những yêu cầu thường gặp trong phần đọc hiểu của đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn.

Các phương thức biểu đạt: 1. Tự sự

Phương thức biểu đạt tự sự là phương thức trình bày các sự việc (sự kiện) có quan hệ nhân quả đến kết quả. (diễn biến sự việc)

Thể loại

– Bản tin báo chí

– Bản tường thuật, tường trình

– Tác phẩm văn học nghệ thuận (Truyện, tiểu thuyết)

Ví dụ

“…Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi đứa một cái giỏ, sai đi bắt tôm, bắt tép và hứa, đứa nào bắt được đầy giỏ sẽ thưởng cho một cái yếm đỏ. Tấm vốn chăm chỉ, lại sợ dì mắng nên mải miết suốt buổi bắt đầy một giỏ cả tôm lẫn tép. Còn Cám quen được nuông chiều, chỉ ham chơi nên mãi đến chiều chẳng bắt được gì…” (Tấm cám)

Trong đoạn văn trên, tác giả dân gian kể về sự việc hai chị em đi bắt tép

+ Có nhân vật: dì ghê Tấm

+ Có câu chuyện đi bắt tép của hai chị em

+ Có diễn biến hành động của các nhân vật dì ghẻ Tấm và Cám

2. Miêu tả

– Miêu tả: là dùng ngôn ngữ làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc như đang hiện ra trước mắt hoặc nhận biết được thế giới nội tâm của con người.

Tia nắng đầu tiên xuất hiện trên cành lá như một đồng tiền vàng nhỏ xinh mà ông mặt trời vô tình đánh rơi xuống nhân gian. Sau tia nắng ây là vô số những tia nắng khác cũng thay nhau chiếu xuống đánh thức khu vườn cùng những sinh vật còn đang say ngủ. Cây cối trong vườn như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài mà vươn mình đón những tia nắng đầu tiên của vầng thái dương ấm áp. Trên những cánh hoa e ấp vẫn còn đọng lại một vài hạt sương đêm, được ánh nắng mặt trời chiếu vào chúng lại cành lấp lánh và long lanh như những viên ngọc quý. Trong vòm lá xanh um, những chú chim sâu, chim chích bông đã trở mình bừng tỉnh bắt đầu thực hiện nhiệm vụ của một ngày mới trong khi chim sơn ca lại bắt đầu ca lên bản nhạc đón chào một ngày mới bắt đầu. Sau một đêm dài nghỉ ngơi, những cây xanh lại vươn mình đón làn gió ban mai mát mẻ, cùng nhau tập bài thể dục chào buổi sáng. Không khí bây giờ thật ồn ào và sôi động bởi vô số âm thanh khác nhau từ các loài chim, có cả tiếng ve sầu kêu báo hiệu hè về. Không gian trong vườn tràn ngập hương thơm của hoa, của lá có cả hương thơm của đám cỏ dại cùng mùi thân cây tạo ra một thứ mùi nồng nồng ngai ngái mang đậm bản sắc thôn quê.

3. Biểu cảm

Biểu cảm là một nhu cầu của con người trong cuộc sống bởi trong thực tế sống luôn có những điều khiến ta rung động (cảm) và muốn bộc lộ (biểu) ra với một hay nhiều người khác. PT biểu cảm là dùng ngôn ngữ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh

Quê hương đón tôi chào đời bằng dòng nước mát lành và nuôi tôi lớn lên bằng những hạt ngọc của trời. Thật tự hào biết mấy khi được là người con của mảnh đất màu mỡ này. Nơi đây đã ghi dấu bao kỉ niệm thuở ấu thơ của tôi, những buổi chiều ra chiền đê hóng mát, gối đầu lên thảm cỏ xanh mượt mà, tận hưởng cái mùi hương tinh khiết vô cùng mộc mạc của quê hương là thú vui ưa thích của tôi. Tôi cũng không quên được những ngày đi trộm ổi, những buổi ra sông bắt con tôm, con tép hay khoảng thời gian ngẩng lên bầu trời mà ước mơ về một tương lai tốt đẹp.Quê hương – tiếng gọi thân thương mà quen thuộc, quê hương nơi cho tôi những ngày ấu thơ, cho tôi hoài bão về một tâm hồn đẹp. Mai sau, dù có đi đâu xa tôi vẫn luôn nhớ về mảnh đất này như nhớ tới người mẹ hiền luôn ôm ấp tôi vào lòng vậy. Mỗi người chúng ta dù già hay trẻ dù giàu sang hay nghèo đói tì vẫn có tình cảm đặc biệt với quê hương mình vì: ” Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người”

4. Thuyết minh

Thuyết minh là cung cấp, giới thiệu, giảng giải,,…những tri thức về một sự vật, hiện tượng nào đó cho những người cần biết nhưng còn chưa biết.

Mỗi tác phẩm giống như một ô cửa mở tới tình yêu, hướng chúng ta đến thế giới của chân thiện mĩ. Nhưng một tác phẩm chân chính là sự kết hợp hài hòa giữa hình thức và nội dung. Cái hay giản dị, sâu sắc mà ám ảnh cả hồn lẫn xác ấy ta đã gặp trong “Vội vàng” của Xuân Diệu. Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Trong phong trào thơ Mới mỗi nhà thơ lại mang đến cho người đọc những giọng riêng: một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Và đến với Vội Vàng cái thiết tha rạo rực ấy đã hiện lên rất rõ. Bài thơ được đưa theo mạch cảm xúc và mạch lập luận triết lí của Xuân Diệu: trước hết ông muốn tắt nắng buộc gió để cái đpẹ luôn thắm sắc đẹp hương, bởi cuộc sống nơi trần thế mới thanh tân, trẻ trung và tràn đầy sức sống làm sao. Chính vì cuộc sống đẹp như vậy, nhưng thời gian lại một đi không trở lại và tuổi xuân của con người không thắm lại hai lần nên phải sống vội vàng, cuống quýt để tận hưởng và tận hiến với cuộc đời. Đó chính là mạch lập luận cách chẽ mà qua mỗi khổ thơ Xuân Diệu giục giã và khơi lên cho người đọc. Hình ảnh thơ Xuân Diệu luôn là những hình ảnh rất tình tứ, mật ngọt, thơ mộng và trẻ trung. Bởi Xuân Diệu luôn nhìn đời bằng cặp mắt xanh non và rờn biếc: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật Hoa của đồng nội xanh rì Lá cành tơ phơ phất Khúc tình si Tháng Giêng ngon như cặp môi gần.” Đó là hệ thống hình ảnh rất tây, rất mới, rất trẻ và rất Xuân Diệu. Chính yêu đương và tuổi trẻ làm mạch nguồn chính cho mảnh vườn tình ái của mình nên Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới bằng lầu thơ xây trên đất của một tấm lòng trần. ngôn ngữ Xuân Diệu là ngôn ngữ cách tân, táo bạo giàu tính nhục thể, rất gợi cảm giác như cặp môi gần, các động từ mạnh như “ôm, riết, say, thâu, cắn” đã cho thấy được sự vồ vập cuống quyết của một hồn thơ thèm yêu khát sống. nếu ở ca dao là câu thơ điệu ru, trung đại là câu thơ điệu ngâm thì đến hiện đại và đặc biệt là phong trào thơ Mới là câu thơ điệu nói, rất điển hình trong vội vàng của Xuân Diệu. Nhưng câu thơ ngắn dài, nhịp nhanh trào ra sóng sánh dồn dập và sôi nổi như trái tim cuống quýt, si mê đắm say và vồ vập của ông. Những câu thơ điệu nói góp phần đưa chất văn xuôi tràn vào thơ, đồng thời bộc lộ rõ được cá tính, phong cách nghệ sĩ.Xuân Diệu luôn là một trái tim nồng nàn và tha thiết với cuộc sống, ông khát khao giao cảm, thâu nhận và thu hợp chí muôn phương để hồn thơ của mình đến với mọi nhà một cách chân thành và tha thiết nhất, đấy là lí do vì sao Xuân Diệu rất được các bạn trẻ yêu quý và đón nhận. “Vội vàng” chính là một trong những khúc ca sôi nổi và đắm say ấy của xuân Diệu về cuộc sống, con người với những quan niệm thẩm mĩ tích cực, sâu sắc và mới mẻ.

5. Nghị luận

Nghị luận là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết rồi dẫn dắt, thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình.

6. Hành chính – Công vụ

– Hành chính – công vụ là phương thức dùng để giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác trên cơ sở pháp lí [thông tư, nghị định, đơn từ, báo cáo, hóa đơn, hợp đồng…]

“Điều 5.- Xử lý vi phạm đối với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính mà sách nhiễu nhân dân, dung túng, bao che cho cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính, không xử phạt hoặc xử phạt không kịp thời, không đúng mức, xử phạt quá thẩm quyền quy định thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại vật chất thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”

Ví dụ đoạn văn sau đây đã sử dụng phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm ,… “Cái quạt giấy”

Cái quạt giấy, quạt nan, quạt lá cọ, quạt mo, đã cho thấy đầu óc sáng tạo, nếp sống giản dị của dân tộc ta.

Trước đây, kinh tế còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, hầu như người nào, gia đình nào cũng có hai ba chiếc quạt giấy, quạt nan. Cái quạt thủ công vừa rẻ, vừa tiện lợi. Lúc nóng cần phe phẩy thì xoè ra, dùng xong thì xếp lại. Quạt giấy dùng lâu đã sờn, đã rách thì ta mua quạt khác hoặc dùng quạt nan, quạt mo.

Chiếc quạt giấy đã đi suốt hành trình nhiều thế kỉ. Bước sang thiên kỉ mới, quạt máy đẹp, tốt và rẻ, điện đã về tận mọi xóm làng quê, nhưng ta vẫn thấy cái quạt giấy, quạt lụa, quạt nhựa, đủ màu sắc dáng hình. Các điểm du lịch, các hội chợ, cái quạt giấy đã trở thành món hàng lưu niệm được nhiều du khách ưa chuộng. Khách sạn Métropole giữa thủ đô Hà Nội, năm nào cũng đặt mua hàng vạn quạt giấy xinh xinh. Bà đồng cốt ở hội Phủ Giày, ở lễ hội Đền Sòng vẫn dùng cái quạt giấy rõ to rõ dài… lúc múa hát.

Trước đây, ở nước ta có nhiều làng nghề nổi tiếng làm quạt như làng Vác ở Thanh Oai, làng Chàng Sơn ở Quốc Oai,… thuộc xứ Đoài, Sơn Tây, Hà Nội. Tục ngữ còn lưu truyền: “Nón Chuông, quạt Vác, mành mành Võ Lăng”. Nhiều hộ làm quạt giấy ở làng Vác, ở làng Chàng Sơn cho đến nay vẫn không hết việc, vẫn sinh sống và làm giàu bằng nghề truyền thống của ông cha.

Nan quạt vẫn bằng tre, trúc thanh mảnh, nuột nà, vẫn bằng giấy và lụa, vẫn có đủ 17 hay 18 nan, nhưng màu sắc và hoạ tiết (là hoa, là ong bướm, là Tố Nữ, là phong cảnh, v.v….) đã nâng tầm vóc chiếc quạt giấy thành một vật phẩm lưu niệm của khách du lịch, nhất là các ông Tây, bà đầm. Cái mắt quạt bằng kim loại màu làm cho quạt thêm xinh thêm đẹp.

Triển lãm Festival nghề truyền thống Việt Nam tại Huế 2009, nhiều người đã ngạc nhiên và trầm trồ về chiếc quạt giấy khổng lổ với chiều cao 4,5 mét, chiều rộng 9 mét, được trang trí tuyệt đẹp. Tác giả chiếc quạt ấy là nghệ nhân Dương Văn Mơ, ngoài 70 tuổi, người làng nghề Chàng Sơn.

Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi đã có 8 bài thơ liên hoàn vịnh cái quạt. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng có 2 bài thơ hóm hỉnh nói về cái quạt giấy: “Mười bảy hay là mười tám đây? – Cho ta yêu dấu chẳng rời tay… ”

Cái quạt giấy bình dị và thân thuộc thật đáng yêu. Nó là hồn quê đất Việt.

Các Phương Thức Biểu Đạt Và Dấu Hiệu Nhận Biết Chuẩn Xác

Phương thức biểu đạt là gì là thắc mắc của rất nhiều người, đặc biệt là khi đang quan tâm đến các loại biểu đạt. Theo định nghĩa phương thức biểu đạt là cách người với người trao đổi những tâm tư, ý nghĩa, cảm xúc của mình với đối tượng trực tiếp tiếp xúc. Phương thức biểu đạt giúp cho mọi người gần gũi nhau hơn, cuộc trò chuyện sẽ trở nên hữu ích hơn. Xác định phương thức biểu đạt trong một văn bản là một trong những yêu cầu thường gặp trong phần đọc hiểu của đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn.

Các phương thức biểu đạt: 1. Tự sự

Phương thức biểu đạt tự sự là phương thức trình bày các sự việc (sự kiện) có quan hệ nhân quả đến kết quả. (diễn biến sự việc)

Thể loại

– Bản tin báo chí

– Bản tường thuật, tường trình

– Tác phẩm văn học nghệ thuận (Truyện, tiểu thuyết)

Ví dụ

“…Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi đứa một cái giỏ, sai đi bắt tôm, bắt tép và hứa, đứa nào bắt được đầy giỏ sẽ thưởng cho một cái yếm đỏ. Tấm vốn chăm chỉ, lại sợ dì mắng nên mải miết suốt buổi bắt đầy một giỏ cả tôm lẫn tép. Còn Cám quen được nuông chiều, chỉ ham chơi nên mãi đến chiều chẳng bắt được gì…” (Tấm cám)

Trong đoạn văn trên, tác giả dân gian kể về sự việc hai chị em đi bắt tép

+ Có nhân vật: dì ghê Tấm

+ Có câu chuyện đi bắt tép của hai chị em

+ Có diễn biến hành động của các nhân vật dì ghẻ Tấm và Cám

2. Miêu tả

– Miêu tả: là dùng ngôn ngữ làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc như đang hiện ra trước mắt hoặc nhận biết được thế giới nội tâm của con người.

Tia nắng đầu tiên xuất hiện trên cành lá như một đồng tiền vàng nhỏ xinh mà ông mặt trời vô tình đánh rơi xuống nhân gian. Sau tia nắng ây là vô số những tia nắng khác cũng thay nhau chiếu xuống đánh thức khu vườn cùng những sinh vật còn đang say ngủ. Cây cối trong vườn như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài mà vươn mình đón những tia nắng đầu tiên của vầng thái dương ấm áp. Trên những cánh hoa e ấp vẫn còn đọng lại một vài hạt sương đêm, được ánh nắng mặt trời chiếu vào chúng lại cành lấp lánh và long lanh như những viên ngọc quý. Trong vòm lá xanh um, những chú chim sâu, chim chích bông đã trở mình bừng tỉnh bắt đầu thực hiện nhiệm vụ của một ngày mới trong khi chim sơn ca lại bắt đầu ca lên bản nhạc đón chào một ngày mới bắt đầu. Sau một đêm dài nghỉ ngơi, những cây xanh lại vươn mình đón làn gió ban mai mát mẻ, cùng nhau tập bài thể dục chào buổi sáng. Không khí bây giờ thật ồn ào và sôi động bởi vô số âm thanh khác nhau từ các loài chim, có cả tiếng ve sầu kêu báo hiệu hè về. Không gian trong vườn tràn ngập hương thơm của hoa, của lá có cả hương thơm của đám cỏ dại cùng mùi thân cây tạo ra một thứ mùi nồng nồng ngai ngái mang đậm bản sắc thôn quê.

3. Biểu cảm

Biểu cảm là một nhu cầu của con người trong cuộc sống bởi trong thực tế sống luôn có những điều khiến ta rung động (cảm) và muốn bộc lộ (biểu) ra với một hay nhiều người khác. PT biểu cảm là dùng ngôn ngữ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh

Quê hương đón tôi chào đời bằng dòng nước mát lành và nuôi tôi lớn lên bằng những hạt ngọc của trời. Thật tự hào biết mấy khi được là người con của mảnh đất màu mỡ này. Nơi đây đã ghi dấu bao kỉ niệm thuở ấu thơ của tôi, những buổi chiều ra chiền đê hóng mát, gối đầu lên thảm cỏ xanh mượt mà, tận hưởng cái mùi hương tinh khiết vô cùng mộc mạc của quê hương là thú vui ưa thích của tôi. Tôi cũng không quên được những ngày đi trộm ổi, những buổi ra sông bắt con tôm, con tép hay khoảng thời gian ngẩng lên bầu trời mà ước mơ về một tương lai tốt đẹp.Quê hương – tiếng gọi thân thương mà quen thuộc, quê hương nơi cho tôi những ngày ấu thơ, cho tôi hoài bão về một tâm hồn đẹp. Mai sau, dù có đi đâu xa tôi vẫn luôn nhớ về mảnh đất này như nhớ tới người mẹ hiền luôn ôm ấp tôi vào lòng vậy. Mỗi người chúng ta dù già hay trẻ dù giàu sang hay nghèo đói tì vẫn có tình cảm đặc biệt với quê hương mình vì: ” Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người”

4. Thuyết minh

Thuyết minh là cung cấp, giới thiệu, giảng giải,,…những tri thức về một sự vật, hiện tượng nào đó cho những người cần biết nhưng còn chưa biết.

Mỗi tác phẩm giống như một ô cửa mở tới tình yêu, hướng chúng ta đến thế giới của chân thiện mĩ. Nhưng một tác phẩm chân chính là sự kết hợp hài hòa giữa hình thức và nội dung. Cái hay giản dị, sâu sắc mà ám ảnh cả hồn lẫn xác ấy ta đã gặp trong “Vội vàng” của Xuân Diệu. Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Trong phong trào thơ Mới mỗi nhà thơ lại mang đến cho người đọc những giọng riêng: một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Và đến với Vội Vàng cái thiết tha rạo rực ấy đã hiện lên rất rõ. Bài thơ được đưa theo mạch cảm xúc và mạch lập luận triết lí của Xuân Diệu: trước hết ông muốn tắt nắng buộc gió để cái đpẹ luôn thắm sắc đẹp hương, bởi cuộc sống nơi trần thế mới thanh tân, trẻ trung và tràn đầy sức sống làm sao. Chính vì cuộc sống đẹp như vậy, nhưng thời gian lại một đi không trở lại và tuổi xuân của con người không thắm lại hai lần nên phải sống vội vàng, cuống quýt để tận hưởng và tận hiến với cuộc đời. Đó chính là mạch lập luận cách chẽ mà qua mỗi khổ thơ Xuân Diệu giục giã và khơi lên cho người đọc. Hình ảnh thơ Xuân Diệu luôn là những hình ảnh rất tình tứ, mật ngọt, thơ mộng và trẻ trung. Bởi Xuân Diệu luôn nhìn đời bằng cặp mắt xanh non và rờn biếc: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật Hoa của đồng nội xanh rì Lá cành tơ phơ phất Khúc tình si Tháng Giêng ngon như cặp môi gần.” Đó là hệ thống hình ảnh rất tây, rất mới, rất trẻ và rất Xuân Diệu. Chính yêu đương và tuổi trẻ làm mạch nguồn chính cho mảnh vườn tình ái của mình nên Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới bằng lầu thơ xây trên đất của một tấm lòng trần. ngôn ngữ Xuân Diệu là ngôn ngữ cách tân, táo bạo giàu tính nhục thể, rất gợi cảm giác như cặp môi gần, các động từ mạnh như “ôm, riết, say, thâu, cắn” đã cho thấy được sự vồ vập cuống quyết của một hồn thơ thèm yêu khát sống. nếu ở ca dao là câu thơ điệu ru, trung đại là câu thơ điệu ngâm thì đến hiện đại và đặc biệt là phong trào thơ Mới là câu thơ điệu nói, rất điển hình trong vội vàng của Xuân Diệu. Nhưng câu thơ ngắn dài, nhịp nhanh trào ra sóng sánh dồn dập và sôi nổi như trái tim cuống quýt, si mê đắm say và vồ vập của ông. Những câu thơ điệu nói góp phần đưa chất văn xuôi tràn vào thơ, đồng thời bộc lộ rõ được cá tính, phong cách nghệ sĩ.Xuân Diệu luôn là một trái tim nồng nàn và tha thiết với cuộc sống, ông khát khao giao cảm, thâu nhận và thu hợp chí muôn phương để hồn thơ của mình đến với mọi nhà một cách chân thành và tha thiết nhất, đấy là lí do vì sao Xuân Diệu rất được các bạn trẻ yêu quý và đón nhận. “Vội vàng” chính là một trong những khúc ca sôi nổi và đắm say ấy của xuân Diệu về cuộc sống, con người với những quan niệm thẩm mĩ tích cực, sâu sắc và mới mẻ.

5. Nghị luận

Nghị luận là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết rồi dẫn dắt, thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình.

6. Hành chính – Công vụ

– Hành chính – công vụ là phương thức dùng để giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác trên cơ sở pháp lí [thông tư, nghị định, đơn từ, báo cáo, hóa đơn, hợp đồng…]

“Điều 5.- Xử lý vi phạm đối với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính mà sách nhiễu nhân dân, dung túng, bao che cho cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính, không xử phạt hoặc xử phạt không kịp thời, không đúng mức, xử phạt quá thẩm quyền quy định thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại vật chất thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”

Ví dụ đoạn văn sau đây đã sử dụng phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm ,… “Cái quạt giấy”

Cái quạt giấy, quạt nan, quạt lá cọ, quạt mo, đã cho thấy đầu óc sáng tạo, nếp sống giản dị của dân tộc ta.

Trước đây, kinh tế còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, hầu như người nào, gia đình nào cũng có hai ba chiếc quạt giấy, quạt nan. Cái quạt thủ công vừa rẻ, vừa tiện lợi. Lúc nóng cần phe phẩy thì xoè ra, dùng xong thì xếp lại. Quạt giấy dùng lâu đã sờn, đã rách thì ta mua quạt khác hoặc dùng quạt nan, quạt mo.

Chiếc quạt giấy đã đi suốt hành trình nhiều thế kỉ. Bước sang thiên kỉ mới, quạt máy đẹp, tốt và rẻ, điện đã về tận mọi xóm làng quê, nhưng ta vẫn thấy cái quạt giấy, quạt lụa, quạt nhựa, đủ màu sắc dáng hình. Các điểm du lịch, các hội chợ, cái quạt giấy đã trở thành món hàng lưu niệm được nhiều du khách ưa chuộng. Khách sạn Métropole giữa thủ đô Hà Nội, năm nào cũng đặt mua hàng vạn quạt giấy xinh xinh. Bà đồng cốt ở hội Phủ Giày, ở lễ hội Đền Sòng vẫn dùng cái quạt giấy rõ to rõ dài… lúc múa hát.

Trước đây, ở nước ta có nhiều làng nghề nổi tiếng làm quạt như làng Vác ở Thanh Oai, làng Chàng Sơn ở Quốc Oai,… thuộc xứ Đoài, Sơn Tây, Hà Nội. Tục ngữ còn lưu truyền: “Nón Chuông, quạt Vác, mành mành Võ Lăng”. Nhiều hộ làm quạt giấy ở làng Vác, ở làng Chàng Sơn cho đến nay vẫn không hết việc, vẫn sinh sống và làm giàu bằng nghề truyền thống của ông cha.

Nan quạt vẫn bằng tre, trúc thanh mảnh, nuột nà, vẫn bằng giấy và lụa, vẫn có đủ 17 hay 18 nan, nhưng màu sắc và hoạ tiết (là hoa, là ong bướm, là Tố Nữ, là phong cảnh, v.v….) đã nâng tầm vóc chiếc quạt giấy thành một vật phẩm lưu niệm của khách du lịch, nhất là các ông Tây, bà đầm. Cái mắt quạt bằng kim loại màu làm cho quạt thêm xinh thêm đẹp.

Triển lãm Festival nghề truyền thống Việt Nam tại Huế 2009, nhiều người đã ngạc nhiên và trầm trồ về chiếc quạt giấy khổng lổ với chiều cao 4,5 mét, chiều rộng 9 mét, được trang trí tuyệt đẹp. Tác giả chiếc quạt ấy là nghệ nhân Dương Văn Mơ, ngoài 70 tuổi, người làng nghề Chàng Sơn.

Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi đã có 8 bài thơ liên hoàn vịnh cái quạt. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng có 2 bài thơ hóm hỉnh nói về cái quạt giấy: “Mười bảy hay là mười tám đây? – Cho ta yêu dấu chẳng rời tay… ”

Cái quạt giấy bình dị và thân thuộc thật đáng yêu. Nó là hồn quê đất Việt.