Bạn đang xem bài viết Chiến Lược Kinh Doanh (P1: Là Gì?) được cập nhật mới nhất trên website Tzlt.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trong chiến tranh ta hay được nghe tới hai danh từ “Chiến lược” và “Chiến thuật”. Chiến thuật là chỉ cách thức để đạt một mục tiêu trong một trận đánh, một giai đoạn ngắn còn Chiến lược dùng cho cách thức để thắng trong một cuộc chiến, một giai đoạn dài.
Chiến lược chỉ mang tính chất định hướng; ví dụ như đánh nhanh thắng nhanh hay đánh chắc thắng chắc, đánh du kích hay đánh công khai quy mô lớn,…Còn kế hoạch thì bao gồm các bước thực hiện cùng nguồn lực sử dụng để thực hiện một mục tiêu nào đó. Từ to tới nhỏ cái gì cũng có thể lập kế hoạch, Chiến lược và Kế hoạch vì vậy là khác nhau.
Thương trường như chiến trường; rất nhiều cụm từ dùng trên chiến trường nay dùng trong thương trường. Khác biệt là mối quan hệ đối đầu trên chiến trường là mối quan hệ đối kháng một mất một còn, hai bên có thể sử dụng mọi thủ đoạn nếu thấy cần, trong kinh doanh thì doanh nghiệp có thể dùng mọi biện pháp cạnh tranh nhưng trong khuôn khổ pháp luật nhất định.
Có chiến lược đúng cho dù thực hiện không tốt còn hơn là có chiến lược sai và thực hiện tốt chiến lược đó. Chiến lược không phải là cái bất biến, nó được điều chỉnh theo sự thay đổi của cơ hội và rủi ro đến từ bên ngoài, của điểm mạnh và điểm yếu đến từ bên trong. Người ta dùng cụm danh từ “Quản trị chiến lược kinh doanh” là để ám chỉ rằng cần phải xây dựng, tổ chức, giám sát, điều chỉnh, kiểm tra chiến lược; và các việc này phải thực hiện một cách thường xuyên.
Khác biệt nữa giữa hai khái niệm này nữa là khi người ta xây dựng chiến lược người ta hướng tới mục tiêu mong muốn đạt được, nó mang tính tấn công cao. Khi lập kế hoạch thì lại phải tính tới nguồn lực để thực hiện kế hoạch nhằm đạt mục tiêu.
Như vậy quy trình chung trong việc xây dựng bộ ba Chiến lược – Chính sách – Kế hoạch
– Chiến lược cấp đơn vị Kinh doanh: trong trường hợp DN kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực thì mỗi ngành, lĩnh vực đó cần phải có chiến lược riêng. Chiến lược này vẫn phải nằm trong chiến lược chung của toàn công ty.
– Chiến lược cấp đơn vị chức năng: ví dụ như chiến lược marketing, chiến lược nguồn nhân lực, chiến lược tài chính, chiến lược nghiên cứu phát triển, chiến lược cung cấp dịch vụ sau bán hàng,….Có rất nhiều chiến lược khác nhau nhưng tựu trung trong một công ty có 3 chiến lược chức năng quan trọng nhất là 1.Chiến lược marketting, 2.Chiến lược tài chính và 3.Chiến lược nguồn nhân lực.
Như vậy “Chiến lược kinh doanh” là bao hàm nghĩa rộng, nó bao gồm các thể loại chiến lược khác nhau; tùy thuộc chúng ta đang nói tới cấp độ, thời kỳ của chiến lược mà sẽ dùng tên gọi riêng tương ứng.
Comments
Quy Trình Đánh Giá Chiến Lược Kinh Doanh
Kết quả
Quy trình đánh giá chiến lược kinh doanh:
1. Đánh giá chiến lược kinh doanh: Đánh giá chiến lược kinh doanh phải nhằm trả lời các câu hỏi chủ yếu là: chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có còn phù hợp với môi trường kinh doanh không? Nếu phải điều chỉnh thì phải điều chỉnh toàn bộ chiến lược kinh doanh hay chỉ cần điều chỉnh các chiến lược kinh doanh bộ phận? Nếu không điều chỉnh thì hình ảnh cạnh tranh mới của doanh nghiệp sẽ như thế nào?
Cách đánh giá chiến lược kinh doanh bằng phương pháp ma trận như trên là phương pháp hết sức khái quát và mang tính chất định tính. Phương pháp này tuy đơn giản song trong chừng mực nhất định chứa đựng yếu tố chủ quan cao trong đánh giá vì việc trả lời các câu hỏi đặt ra hầu như không dựa vào các tiêu chuẩn đánh giá cụ thể. Đồng thời, cách đánh giá bằng phương pháp ma trận cũng chỉ cho biết cần phải điều chỉnh chiến lược kinh doanh đã xây dựng hay không chứ không giải đáp được câu hỏi: có cần điều chỉnh toàn bộ chiến lược kinh doanh hay chỉ cần điều chỉnh các chiến lược kinh doanh bộ phận?
Để đánh giá chiến lược kinh doanh một cách đầy đủ, phải dựa trên cơ sở đánh giá sự tác động của từng nhân tố môi trường kinh doanh và đánh giá các mục tiêu chiến lược kinh doanh .
Môi trường kinh doanh bao gồm toàn bộ những nhân tố thuộc môi trường bên ngoài và môi trường nội bộ doanh nghiệp tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Để đánh giá môi trường bên ngoài tác động đến chiến lược kinh doanh có thể xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chung cho cả môi trường kinh tế quốc dân và môi trường ngành hoặc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá riêng cho môi trường kinh tế quốc dân và môi trường ngành.
Để xây dựng bảng đánh giá môi trường bên ngoài cần xác định các vấn đề cụ thể:
– Xác định điểm – hệ số tầm quan trọng. Trên cơ sở hệ số tầm quan trọng và điểm ảnh hưởng của từng nhân tố xác định được điểm – hệ số tầm quan trọng của từng nhân tố. Nếu Đi là điểm ảnh hưởng của nhân tố thứ i, H i là hệ số tầm quan trọng của nhân tố i và (Đ H) i là điểm – hệ số ảnh hưởng của nhân tố i thì có: (Đ H) i = Đ i x H i. Với cách cho điểm và xác định hệ số tầm quan trọng như vậy thì tổng số điểm tối thiểu cần đạt để có thể chấp nhận kết luận không cần điều chỉnh chiến lược kinh doanh là 1.
– Xây dựng bảng đánh giá môi trường kinh doanh và rút ra kết luận từ kết quả đánh giá. Lập bảng đánh giá môi trường.
Với cách xây dựng hệ số ảnh hưởng và cho điểm như trên nếu tổng số điểm – hệ số
Cũng có thể sử dụng phương pháp hoàn toàn tương tự để đánh giá môi trường bên trong doanh nghiệp đối với chiến lược kinh doanh đã xây dựng. Tức là dựa trên cơ sở xác định hệ số tầm quan trọng của từng nhân tố, căn cứ vào vai trò của sự ảnh hưởng của từng nhân tố đối với sự thay đổi chiến lược kinh doanh, cho điểm ảnh hưởng của từng nhân tố đã xác định tùy thuộc vào thực tế lúc đánh giá nhân tố đó tác động đến việc thực hiện chiến lược kinh doanh như thế nào rồi lập bảng đánh giá tổng quát. Theo phương pháp này phải tiến hành các công việc sau:
– Xác định điểm – hệ số tầm quan trọng. Trên cơ sở hệ số tầm quan trọng và điểm ảnh hưởng của từng nhân tố xác định được điểm – hệ số tầm quan trọng của từng nhân tố. Nếu Đ i là điểm ảnh hưởng của nhân tố thứ i, H i là hệ số tầm quan trọng của nhân tố i và (ĐH)i là điểm – hệ số ảnh hưởng của nhân tố i thì có: (Đ H) i = Đ i x H i. Với cách cho điểm và xác định hệ số tầm quan trọng như trên thì tổng số điểm tối thiểu cật đạt để chấp nhận kết luận không cần điều chỉnh chiến lược kinh doanh là 1
– Xây dựng bảng đánh giá môi trường kinh doanh và rút ra kết luận từ kết quả đánh giá. Lập bảng đánh giá môi trường.
Tuy nhiên, đánh giá theo tổng số điểm – hệ số như trên cũng có hạn chế cơ bản là do cách đánh giá tổng hợp hàm chứa yếu tố bù trừ giữa các nhân tố nên có thể xảy ra trường hợp mặc dù tổng số điểm – hệ số đánh giá đã đảm bảo kết luận không phải điều chỉnh chiến lược kinh doanh đã có, song có thể xảy ra sự biến động quá lớn của một vài nhân tố cũng đã đòi hỏi phải điều chỉnh chiến lược kinh doanh. Để khắc phục hạn chế này có thể thay đổi mức điểm đánh giá theo hướng thu hẹp những ảnh hưởng bù trừ và phân tích bổ sung đối với những nhân tố có biểu hiện biến động bất thường.
Một số tác giả đề nghị khi đánh giá chiến lược kinh doanh phải đặt ra và trả lời một loạt các câu hỏi chủ yếu như:
– Đối thủ đã phản ứng như thế nào trước chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp ?
– Các chiến lược kinh doanh của đối thủ thay đổi ra sao?
– Điểm mạnh và yếu của đối thủ chính thay đổi ra sao?
– Tại sao đối thủ thực hiện một số thay đổi chiến lược kinh doanh nào đó?
– Tại sao những chiến lược kinh doanh của đối thủ này lại thành công hơn những chiến lược của các đối thủ khác?
– Đối thủ có thái độ như thế nào với vị thế và lợi nhuận hiện tại?
– Bằng cách nào doanh nghiệp có thể liên kết có kết quả hơn với đối thủ?
– Có phải mặt mạnh của doanh nghiệp vẫn còn là mặt mạnh?
– Liệu có xuất hiện thêm mặt mạnh nào chưa? nếu có, đó là những mặt mạnh gì?
– Điểm yếu bên trong doanh nghiệp vẫn là điểm yếu?
– Doanh nghiệp có những điểm yếu bên trong nào khác không? nếu có, chúng là gì?
– Những cơ hội bên ngoài vẫn là cơ hội?
– Doanh nghiệp có những cơ hội nào khác không? nếu có, chúng là gì?
– Những nguy cơ đối với doanh nghiệp vẫn là nguy cơ?
– Doanh nghiệp có đứng trước các nguy cơ nào khác không? nếu có, chúng là gì?
Theo S. Tiles có sáu câu hỏi về chất lượng có ích cho đánh giá chiến lược kinh doanh là:
– Chiến lược kinh doanh có nhất quán với bên trong không?
– Chiến lược kinh doanh có nhất quán với môi trường không?
– Chiến lược kinh doanh có phù hợp với điều kiện nguồn lực sẵn có không?
– Chiến lược kinh doanh có gắn với mức rủi ro cho phép không?
– Chiến lược kinh doanh có lịch thời gian phù hợp không?
– Chiến lược kinh doanh có thể hoạt động không?
Những câu hỏi trên tuy rất quan trọng và không thể thiếu được song lại khá khái quát và mang tính chất định tính cao độ. Nếu đánh giá chiến lược kinh doanh chỉ dựa trên cơ sở các câu hỏi đó dễ dẫn tới kết luận đánh giá hàm chứa nhiều yếu tố chủ quan. Vì thế F. R. Davis đưa ra một số câu hỏi bổ sung:
– Cân đối về đầu tư giữa những dự án có rủi ro cao và rủi ro thấp như thế nào?
– Cân đối về đầu tư của doanh nghiệp giữa những dự án dài hạn và ngắn hạn ra sao?
– Cân đối đầu tư của doanh nghiệp giữa thị trường phát triển nhanh và thị trường phát triển chậm ra sao?
– Cân đối đầu tư của doanh nghiệp giữa các khu vực phát triển khác nhau ra sao?
– Các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội ở chừng mực nào?
– Mối quan hệ giữa các yếu tố chiến lược kinh doanh chủ yếu bên trong và bên ngoài là gì? – Các đối thủ chính có kì vọng ra sao để phản ứng với những chiến lược kinh doanh cụ thể?
2. Điều chỉnh chiến lược kinh doanh
Về bản chất, công tác điều chỉnh chiến lược kinh doanh phải được tiến hành theo các
nguyên tắc, phương pháp và sử dụng các phương tiện, công cụ cần thiết trong hoạch định chiến lược kinh doanh. Trong thực tế, thực hiện hoạt động điều chỉnh không nhất thiết có nghĩa là các chiến lược kinh doanh hiện hành sẽ bị huỷ bỏ mà có thể chỉ là những điều chỉnh cần thiết trong cấu trúc của tổ chức, điều chỉnh nhiệm vụ kinh doanh hoặc sửa đổi các mục tiêu, đề ra các chủ trương, chính sách mới,… Tùy theo kết luận của kiểm tra, đánh giá chiến lược kinh doanh mà có điều chỉnh chiến lược kinh doanh hoặc điều chỉnh các kế hoạch triển khai chiến lược kinh doanh.
Trong điều chỉnh chiến lược có thể có điều chỉnh chiến lược kinh doanh, tức điều chỉnh từ hệ thống mục tiêu tổng quát; điều chỉnh từng bộ phận chiến lược kinh doanh, điều chỉnh các giải pháp thực hiện chiến lược kinh doanh. Điều chỉnh các kế hoạch triển khai trung hạn, ngắn hạn cũng như điều chỉnh kế hoạch tác nghiệp bao gồm điều chỉnh các mục tiêu kế hoạch cho phù hợp với các mục tiêu chiến lược kinh doanh và phần đã thực hiện và điều chỉnh các giải pháp nhằm thực hiện các chỉ tiêu đã điều chỉnh.
Thực tế, không doanh nghiệp nào có thể tồn tại như một hòn đảo, không doanh nghiệp nào có thể thoát khỏi sự đổi thay. Thực hiện những hoạt động diều chỉnh là cần thiết để giữ doanh nghiệp vươn đến những mục tiêu. Trong những quyển sách của mình “Future Shock” và “The Third Ware”, alvin Toffler tranh luận rằng: môi trường kinh doanh đang trở nên năng động và phức tạp đến mức chúng đe dọa mọi người và các doanh nghiệp với cú sốc tương lai xảy ra khi mà tính chất, loại thể và tốc độ của sự thay đổi áp chế khả năng, chức năng thực hiện của doanh nghiệp hoạt động của một cá nhân. Đánh giá chiến lược làm gia tăng khả năng thực hiện của một doanh nghiệp một cách thành công để thay đổi những hoàn cảnh. Brown và Angew xem ý tưởng này như là ” sự năng động liên kết”.
Thực hiện những hành động điều chỉnh làm tăng sự hăng hái của nhân viên và những người quản trị. Nghiên cứu đưa ra rằng việc tham gia vào những hoạt động đánh giá chiến lược là một trongnhững cách tốt nhất để vượt qua sự cản trở ngại thay đổi của cá nhân.Theo Erez và Kanfer: cá nhân chấp nhận thay đổi tích cực nhất khi họ có ý thức rõ ràng về sự thay đổi, có một ý thức tự chủ vượt qua những tình huống và nhận thức rõ về việc sẽ thực hiện những hành động cần thiết để đáp ứng sự thay đổi
Những hành động điều chỉnh sẽ đặt doanh nghiệp trong một vị trí tốt hơn để tận dụng hết những điểm mạnh bên trong; Lợi dụng những cơ hội bên ngoài để tránh giảm bớt hay xoa dịu những đe doạ từ bên ngoài và cải biến những điểm yếu kém bên trong. Những hoạt động điều chỉnh nên có một khoảng thời gian xác đáng và một mức độ liều lĩnh phù hợp. Chúng nên nhất quán bên trong và có trách nhiệm xã hội. Có lẽ, quan trọng nhất, những hoạt động điều chỉnh làm lành mạnh vị trí tranh đua của một doanh nghiệp trong ngành cơ bản của nó. Đánh giá chiến lược thường xuyên giúp các nhà chiến lược gắn liền với nhịp điệu của doanh nghiệp và cung cấp thông tin cần thiết cho một hệ thống quản trị chiến lược có hiệu quả. Carter Bayles mô tả thuận lợi của việc đánh giá chiến lược như sau:
Những hoạt động đánh giá chiến lược có thể khơi lại sự tự tin trong chiến lược thương mại hiện tại hoặc trong một thời điểm hành động cần thiết để sửa lại những yếu điểm như là sự bào mòn tính ưu việt sản phẩm hoặc khuyết điểm kỹ thuật. Trong nhiều trường hợp, lợi ích của đánh giá chiến lược là việc tiến xa hơn nữa đối với kết quả của quá trình có thể là một chiến lược mới cơ bản mà sẽ dẫn đầu, ngay cả trong công ty có lợi nhuận kha khá rồi để gia tăng số lời đáng kể. Đây là một khả năng để minh chứng đánh giá chiến lược cho ta kết qủa có thể rất lớn.
Nguồn: Ths. Lê Thị Bích Ngọc (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa)
Kiểm Tra Đánh Giá Chiến Lược Doanh Nghiệp
Quản trị chiến lược giúp doanh nghiệp xác định rõ mục tiêu và định hướng nhưng là một quá trình dài hạn và phải luôn đảm bảo sự phù hợp giữa chiến lược với yêu cầu và những biến động môi trường trên cơ sở hoạt động kiểm tra, đánh giá định kỳ chiến lược nhằm xác định chênh lệch và đưa ra các hành động, giải pháp điều chỉnh kịp thời.
1. Tổng quan về kiểm tra, đánh giá chiến lược
Về bản chất, kiểm tra và đánh giá chiến lược là quá trình phát hiện những vấn đề ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chiến lược, nhằm cảnh báo và đưa ra các biện pháp kịp thời điều chỉnh sửa chữa thích hợp.
Kiểm tra và đánh giá chiến lược giữ vai trò trọng tâm trong quản lý chiến lược; là quá trình đo lường và lượng giá các kết quả chiến lược, thực thi những hành động điều chỉnh để đảm bảo thực hiện các mục tiêu chiến lược và đáp ứng với những điều kiện thay đổi của môi trường. Đôi khi chiến lược có vẻ logic và hợp lý tuy nhiên trong quá trình thực hiện lại không hiệu quả chỉ vì một số nguyên nhân như thiếu nguồn lực, hay thông tin không cập nhật … Vì vậy, trong quá trình thực hiện chiến lược, doanh nghiệp cần triển khai các hoạt động kiểm tra đánh giá cũng như các hoạt động điều chỉnh phù hợp. Quy trình nhằm các mục đích chính sau:
Phát hiện những cơ hội mới và né tránh các đe dọa ;
Duy trì kết quả phù hợp với mong muốn của nhà quản trị;
Giải quyết các vấn đề tồn tại;
Đưa ra các định hướng đúng đắn và phù hợp trong bối cảnh mới; đảm bảo doanh nghiệp đi theo đúng hướng và điều chỉnh các hoạt động cần thiết;
Tạo sự tự tin cho các thành viên, không chỉ người quản lý và cả nhân viên sẽ có động lực làm việc và duy trì công việc nhằm đạt hiệu quả cao.
2. Hình thức tổ chức hoạt động kiểm tra đánh giá chiến lược
Theo hiệp hội kế toán Mỹ, kiểm tra là quá trình tập hợp và đánh giá khách quan các quyết định về các hành động và sự kiện kinh tế nhằm xác định mức độ phù hợp giữa các quyết định này và các tiêu chuẩn thiết lập và truyền những kết quả cho những người cần sử dụng. Kiểm tra chiến lược là loại hình kiểm tra trong doanh nghiệp và cung cấp sự đánh giá rõ ràng tình thế chiến lược của doanh nghiệp. Để kiểm tra và đánh giá chiến lược, người ta thường sử dụng các nhóm kiểm tra sau nhằm đạt hiệu quả tối ưu:
Nhóm độc lập: Đây là các đơn vị hoạt động tư nhân, cung cấp dịch vụ cho các tổ chức và thu tiền phí dịch vụ. Các nhóm độc lập sử dụng một tập hợp các tiêu chuẩn kiểm toán chung.
Nhóm chính phủ : Đó chính là các nhân viên kiểm toán của chính phủ, có trách nhiệm đảm bảo cho các tổ chức hoạt động đúng pháp luật & chế độ chính sách của Nhà nước.
Nhóm nội bộ là nhân viên trong chính doanh nghiệp đó, có trách nhiệm bảo vệ tài sản của doanh nghiệp và đảm bảo cho các quy trình kinh doanh phù hợp với thực tiễn
Để kiểm tra, đánh giá quá trình hoạch định và thực thi chiến lược doanh nghiệp cần xác định rõ các nội dung cần kiểm tra, đánh giá. Các giai đoạn xây dựng và thực hiện chiến lược có đặc tính khác nhau nên phải áp dụng nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá khác nhau phù hợp với đối tượng cần kiểm tra. Về nguyên tắc nội dung cần kiểm tra ở mỗi hình thức kiểm tra phải phù hợp với đối tượng kiểm tra nên không thể giống nhau. Điều đó cũng có nghĩa là nội dung kiểm tra, đánh giá xuất phát từ nội dung chiến lược và phù hợp với nội dung của chiến lược cũng như các kế hoạch triển khai chiến lược kinh doanh.
Quá trình kiểm tra không thể bỏ qua vai trò của các nhà quản trị chiến lược, là hội đồng quản trị và giới quản trị cao cấp, những người có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như quá trình hoạch định và thực thi chiến lược doanh nghiệp. Các nhà lãnh đạo này đã hoạch định chiến lược của doanh nghiệp như thế nào?; họ đã làm được gì để đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp? Kinh nghiệm và trình độ khả năng ra sao? Có thể đánh giá thế mạnh của đội ngũ lãnh đạo này theo kinh nghiệp công tác, khả năng quyết định, khả năng quản lý, am hiểu kinh doanh.
Yếu tố bên ngoài là yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình kiểm tra chiến lược. Khi đã thực thi chiến lược, cần xem xét môi trường bên ngoài có thay đổi gì; bởi khi hoạch định mục tiêu chiến lược, ta cũng dựa trên việc phân tích môi trường bên ngoài. Đó là các cơ hội mà môi trường mang lại lợi ích cho doanh nghiệp cũng như nguy cơ tiềm ẩn từ đó. Cần phân tích hai mặt: môi trường xã hội hay vĩ mô và môi trường ngành. Môi trường xã hội bao gồm các nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị (chính phủ, luật pháp, thuế..), nhân tố xã hội (đạo đức, phong cách sống, quan niệm sống..), nhân tố tự nhiên (yếu tố thời tiết, khí hậu). Môi trường ngành kinh doanh là nơi các doanh nghiệp trực tiếp liên hệ và cạnh tranh. Loại môi trường này được hình thành từ sức ép các đối thủ cạnh tranh hiện tại; đối thủ mới; từ khách hàng; đối tác và sản phẩm thay thế. Những thế lực này quyết định tới quy mô cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tác động của chiến lược tới nó ra sao và cơ hội thu được là gì cũng như rủi ro có thể mắc phải trong tương lai. Việc rà xét lại các mục tiêu chiến lược là bước đánh giá về tính đúng đắn và hợp lý của những mục tiêu và chiến lược đề ra. Khi triển khai có phù hợp với môi trường hay chưa, nếu tương đồng thì cần điểu chỉnh nội dung chiến lược, nếu chưa thì phải điều chỉnh lại mục tiêu.
Bên cạnh môi trường bên ngoài, môi trường bên trong là một điểm không thể bỏ qua. Khâu kiểm tra này cho phép đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp trong cấu trúc tổ chức, văn hóa doanh nghiệp và các nguồn lực chức năng (Marketing, tài chính, nghiên cứu và phát triển, nghiệp vụ (sản xuất, dịch vụ), quản trị nhân lực, hệ thống thông tin). Khả năng về nhân sự minh chứng rằng nếu doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ quản lý có hiểu biết khác nhau sẽ có thể có các sáng tạo ý tưởng khác nhau cũng như đưa ra cách thực hiện chiến lược đúng hay sai. Văn hóa doanh nghiệp có phù hợp với chiến lược hay không, và cách thực hiện như thế có làm thay đổi gì hay không. Về mặt cơ cấu tổ chức, ta có thể dễ dàng thấy khi đặt ra các câu hỏi như cơ cấu tổ chức doanh nghiệp có phù hợp với việc thực hiện chiến lược không? Có hiệu lực trong việc thực hiện hay không? Chính vì thế phân tích cơ cấu tổ chức, phong cách làm việc và hiệu quả của nó tới quá trình thực hiện chiến lược là không thể bỏ qua.
Nội dung tiếp theo của kiểm tra, đánh giá chiến lược là phân tích các nhân tố chiến lược. Chính các nhân tố này sẽ quyết định đến kết quả hiện tại và tương lai. Đó là nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Nhân tố bên trong bao gồm các yếu tố trong nội bộ, cụ thể là các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp. Nhân tố bên ngoài có thể kể đến như yếu tố cạnh tranh… Cần phải kết hợp nhiệm vụ phải làm, mục tiêu cần đạt được với các vấn đề xoay quanh chiến lược nhằm tận dụng lợi thế cũng như xác định thời cơ kinh doanh cần nắm bắt.
Phân tích các lựa chọn phương án chiến lược cũng là một nội dung chính. Chiến lược được quyết định đưa ra thực hiện phải là tối ưu. Lựa chọn chiến lược phải tính đến các khả năng đáp ứng của nó: nó phải phù hợp với điều kiện môi trường, phù hợp với chính sách của công ty, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Điều này sẽ cho phép doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh khả thi. Ví dụ:
Chiến lược thâm nhập thị trường tập trung vào các hoạt động marketing nhằm tăng thị phần cho các sản phẩm. Các trường hợp áp dụng chiến lược là: thị trường sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp chưa bão hòa; tỉ lệ tiêu thụ hay ” cầu” có khả năng gia tăng…
Chiến lược phát triển thị trường là cách tìm thị trường mới để tiêu thụ sản phẩm đang sản xuất, có thể là tìm cách đưa sản phẩm vào thị trường mới. Chiến lược này chỉ có hiệu quả khi thị trường mới đó chưa bị bão hòa.Các trường hợp có thể áp dụng là : doanh nghiệp có sẵn kênh phân phối mới tin cậy, có chất lượng và chi phí hợp lý; doanh nghiệp thành công trên thị trường hiện có; các thị trường khác chưa được khai thác hoặc chưa bão hòa; doanh nghiệp có đủ nguồn lực quản lý mở rộng; khi ngành hàng của doanh nghiệp phát triển thành quy mô toàn cầu.
Chiến lược phát triển sản phẩm chú trọng cách tạo ra sản phẩm mới về mặt nào đó, hay nói cách khác là sản phẩm đặc thù của doanh nghiệp. Chiến lược này đòi hỏi chi phí nghiên cứu và phát triển lớn. Có thể áp dụng chiến lược trong một số trường hợp sau: ngành kinh doanh có đặc trưng công nghệ kỹ thuật thay đổi nhanh chóng; các sản phẩm nổi trội của đối thủ chỉ ở mức giá tương đương; doanh nghiệp cạnh tranh trong ngành có tốc độ phát triển cao.
Sau khi đã kiểm tra các yêu tố cần thiết, đề xuất định hướng và giải pháp là kết quả của quá trình kiểm soát và đánh giá chiến lược. Có thể đó chỉ là những đề xuất tạm thời, tuy nhiên, cũng cho phép cho doanh nghiệp lường trước được một số vấn đề; đó có thể là rủi ro nhưng cũng có thể là cơ hội.
Quá trình đánh giá chiến lược cần phải gắn liền với thực tế. Cần xem xét chiến lược đưa ra và chương trình thực thi có phù hợp hay chưa? Ngân sách cho quá trình triển khai đã hợp lý chưa? Và quá trình hoạt động này đã phù hợp với các điều kiện mới chưa? Nhà quản lý cần xét tới yếu tố thực tế vì bản chất của quá trình đánh giá chiến lược là xem chiến lược có phù hợp với yêu cầu khách quan không?.
Cuối cùng là đánh giá và kiểm tra thông tin. Người quản lý sẽ kiểm soát hệ thống thông tin hiện tại của doanh nghiệp, sau đó so sánh đối chiếu các thông số với kế hoạch đã vạch ra.
3. Đặc điểm của hệ thống kiểm tra đánh giá hiệu quả chiến lược
Một hệ thống kiểm soát đánh giá chiến lược doanh nghiệp hiệu quả có các đặc điểm sau:
Các hoạt động đánh giá chiến lược cần tiết kiệm tối đa chi phí, không cần quá nhiều thông tin cũng như quá ít thông tin; hoạt động kiểm tra, đánh giá phải tiết kiệm và đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Hoạt động kiểm tra, đánh giá phù hợp với mọi giai đoạn quản trị chiến lược kinh doanh: Hoạt động này chỉ có thể đạt các mục tiêu đặt ra khi nó được tiến hành phù hợp với đối tượng kiểm tra. Việc xác định nội dung, tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá dựa trên cơ sở đòi hỏi của đối tượng đánh giá.Mỗi doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng khác nhau do quy mô và lĩnh vực hoạt động khác nhau. Vì thế nội dung chiến lược và cách kiểm tra đánh giá cũng khác nhau. Việc đánh giá chiến lược của một doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ phức tạp hơn do doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn của rất nhiều yếu tố thuộc môi trường kinh doanh cả trong nước và ngoài nước, so với một doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn, hoạt động kinh doanh chủ yếu trong phạm vi một thị trường hẹp nào đó. Điều đó, hoạt động kiểm tra sẽ khác nhau ở lĩnh vực khác nhau.
Các hoạt động kiểm tra, đánh giá mang tính cung cấp thông tin cập nhật cho nhà quản trị chiến lược. Để đảm bảo khả năng dự tính trước của hoạt động kiểm tra đánh giá, doanh nghiệp cần áp dụng các phương pháp thu thập, xử lí và sử dụng số liệu hiện đại. Các thông tin, số liệu cũ không còn thích hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh; vì vậy, việc cập nhật thông tin mỗi ngày là cần thiết.
Kiểm tra, đánh giá cũng phải được đặt ra phù hợp với việc kiểm tra các hoạt động cụ thể. Các kế hoạch triển khai chiến lược kinh doanh càng ngắn hạn bao nhiêu thì càng ít chịu ảnh hưởng của môi trường bên ngoài, song lại càng phụ thuộc nhiều vào các nhân tố bên trong doanh nghiệp bấy nhiêu. Cho nên nếu không có sự biến động chiến lược kinh doanh thì kiểm tra, đánh giá các kế hoạch này càng phải chú trọng tìm giải pháp thực hiện mục tiêu đã xác định.
Hoạt động kiểm tra phải đảm bảo tính linh hoạt: Các yếu tố môi trường kinh doanh đều biến động và là điều kiện để đảm bảo kết quả của công tác kiểm tra. Vậy để đảm bảo tính linh hoạt doanh nghiệp phải biết kết hợp ngay trong kế hoạch kiểm tra của mình hình thức kiểm tra định kì và kiểm tra bất thường; đồng thời, điều này phải được triển khai trong thực tiễn.
Cần thiết lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá cụ thể nhằm tái hiện thực trạng đang xảy ra của doanh nghiệp.
Kiểm tra phải tập trung vào những điểm thiết yếu: các yếu tố khác nhau của cả môi trường bên ngoài và môi trường bên trong đều biến đổi không ngừng, đặc biệt là sự thay đổi của các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài. Không có sự biến động nào là giống nhau hết vậy nên công tác dự đoán không phải lúc nào cũng đem lại kết quả đúng như sự vận động của các nhân tố đó. Khi tiến hành kiểm tra, đánh giá chiến lược kinh doanh nhà quản trị cần hướng sự tập trung vào những nhân tố có tác động mạnh mẽ đến chiến lược kinh doanh (kế hoạch triển khai chiến lược) cũng như những nhân tố có sự biến động chệch khỏi xu thế đã dự đoán đáng kể. Tuy nhiên, việc xác định những điểm yếu cần tập trung không phải lúc nào cũng đơn giản. Có những nhân tố bất khả khảng không thể đoán được.Thực hiện tập trung vào những điểm yếu khi đánh giá chiến lượclà hoàn toàn cần thiết nhằm tập trung vào nỗ lực giải quyết vấn đề cần thiết và đem lại hiệu quả cao với công việc
: Phan Thanh Tú (2019), Quản trị Chiến lược Doanh Nghiệp, NXB Công Thương, trang 244 – 249.
Đánh Giá Môi Trường Chiến Lược
Các đối tượng phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược ĐMC
ĐMC là hồ sơ môi trường quan trọng, có quy định chi tiết các đối tượng phải thực hiện ĐMC như sau:
Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của vùng kinh tế – xã hội, vùng kinh tế trọng điểm, hành lang kinh tế, vành đai kinh tế.
Quy hoạch tổng thể phát triển KT – XH của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
Chiến lược, quy hoạch phát triển khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghiệp.
Chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên quy mô từ 02 tỉnh trở lên.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực quy mô quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh có tác động lớn đến môi trường.
Điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của các đối tượng trên.
(Hình: Đánh giá môi trường chiến lược)
Căn cứ pháp lý về làm ĐMC
Căn cứ vào Luật Bảo vệ môi trường 2014.
Căn cứ Thông tư 27/2015/TT-BTNMT quy định chi tiết về ĐMC, đánh giá tác động môi trường , cam kết BVMT.
Căn cứ Nghị định số 40/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường.
Ý nghĩa và vai trò của đánh giá môi trường chiến lược
Kiến tạo ra mối liên hệ một cách khoa học giữa môi trường với các quyết định chiến lược của doanh nghiệp.
Các biến đổi môi trường được dự báo và cung cấp một cách đầy đủ và toàn diện hơn.
Hạn chế tác động môi trường bởi các quyết định chiến lược khi triển khai thực hiện.
Hỗ trợ tối đa và có hiệu quả trong toàn bộ quá trình đưa ra các quyết định chiến lược. Đây là cách thiết thực nhất giúp các quyết định chiến lược mang tính khả thi và bền vững hơn trong tương lai.
Quy trình thực hiện đánh giá tác động môi trường chiến lược
Các bước thực hiện
Bước 1: Xây dựng kế hoạch cơ bản về ĐMC
Bước 3: Xác định các mục tiêu môi trường và các vấn đề môi trường có thể xảy ra
Bước 4: Phân tích diễn biến và chất lượng môi trường
Bước 6: Dự báo, đánh giá về diễn biến môi trường
Bước 7: Đề xuất biện pháp bảo vệ môi trường
Bước 8: Viết báo cáo ĐMC
Nội dung báo cáo ĐMC
Sự cần thiết, cơ sở pháp lý của nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
Phương pháp thực hiện đánh giá môi trường chiến lược.
Tóm tắt nội dung chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
Xác định chi tiết môi trường tự nhiên và kinh tế – xã hội của vùng chịu sự tác động bởi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
Nhận định và đánh giá sự phù hợp của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch bằng quan điểm, mục tiêu về bảo vệ môi trường.
Đánh giá, dự báo xu hướng tích cực và tiêu cực của các vấn đề về môi trường trong trường hợp thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
Dự báo xu hướng tác động của biến đổi khí hậu trong việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
Tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá ĐMC.
Giải pháp phòng ngừa để giảm thiểu các tiêu cực về vấn đề môi trường.
Xác định những vấn đề tích cực cần tiếp tục trong quá trình nghiên cứu thực hiện.
(Hình: Công ty tư vấn hồ sơ môi trường Hợp Nhất)
Cơ quan tiếp nhận đánh giá ĐMC
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Bộ, cơ quan ngang bộ
UBND cấp tỉnh
Với những lợi thế về khả năng thực hiện tất cả các loại hồ sơ môi trường, quý khách hàng hãy liên hệ với Hợp Nhất theo Hotline 0938 857 768 để được tư vấn chi tiết nhất về dịch vụ tư vấn hồ sơ môi trường .
Cập nhật thông tin chi tiết về Chiến Lược Kinh Doanh (P1: Là Gì?) trên website Tzlt.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!